xem cỡ chữ
T
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, giá trị truyền thống yêu nước, khát vọng độc lập của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa tư tưởng nhân loại, Hồ Chí Minh đã hình thành hệ thống tư tưởng toàn diện, sâu sắc về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quan điểm của Người phản ánh quy luật khách quan, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam.
Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX cho thấy, trong bối cảnh đất nước bị xâm lược, nhân dân chịu cảnh áp bức, bóc lột bởi thực dân Pháp và chế độ phong kiến, đã có rất nhiều phong trào yêu nước diễn ra liên tiếp và mạnh mẽ bằng nhiều con đường và khuynh hướng chính trị khác nhau. Từ con đường của các sĩ phu yêu nước, cho đến các cuộc khởi nghĩa nông dân và con đường cách mạng tư sản,… cuối cùng đều thất bại, do thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn.
Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu) đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911). Ban đầu Nguyễn Ái Quốc hướng về các nước phương Tây (Pháp, Mỹ, Anh). Người đã từng trả lời Ôxíp Manđenxtam, một nhà báo người Nga rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”[1]. Với một mong muốn “đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”. Sau thời gian (khoảng 10 năm) Người sống, làm việc ở các nước tư bản, đến nhiều thuộc địa của chủ nghĩa thực dân và đi đến kết luận: cách mạng tư sản là vĩ đại, nhưng nó chưa đến nơi. Vì cách mạng chỉ đem lại lợi ích cho thiểu số giai cấp, còn đông đảo quần chúng lao động vẫn chịu cảnh áp bức, bóc lột. Nếu chọn con đường cách mạng này cùng lắm chỉ giải phóng được dân tộc. Về sau, trong tác phẩm Đường kách mệnh Người viết: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã bốn lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”[2].
Khi Cách mạng Tháng mười Nga thành công đã thôi thúc Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Lênin. Từ đây, Người tin theo Lênin và Quốc tế ba. Sau này, như Người viết: “Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[3].
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, nửa vời, hình thức. Độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân. Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được đảm bảo.
Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân - những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, bước tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy giá trị của độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân trong mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Theo Người, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[4]. Vì vậy, Người khẳng định, cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xây dựng một xã hội tốt đẹp chưa từng có tiền lệ trong lịch sử dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội không chỉ gắn liền với độc lập dân tộc, mà còn là phương thức, điều kiện để giữ vững độc lập dân tộc, thực hiện quyền tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Trước lúc đi xa, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta bản Di chúc thiêng liêng. Trong đó, Người bày tỏ: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[5]. Đây chính là khát vọng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
2. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cuộc cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công không chỉ đánh dấu sự sụp đổ của chế độ thực dân phong kiến mà còn mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do và xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiếp đó là những thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đưa đất nước đến thống nhất. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, hệ thống tư tưởng đó vẫn tiếp tục giữ vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho đường lối phát triển đất nước, là cơ sở lý luận vững chắc cho việc hoạch định đường lối, chính sách bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thành tựu đạt được sau gần 40 năm đổi mới là minh chứng cho giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là kinh tế tăng trưởng liên tục và tương đối cao. Đến năm 2024, quy mô GDP đạt khoảng 476,3 tỷ USD (đứng thứ 32 thế giới). GDP bình quân đầu người đạt 4.700 USD, tiếp cận ngưỡng thu nhập trung bình cao[6]. Nhờ kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn khoảng 1,9%; chỉ số hạnh phúc xếp thứ 54/143[7]. Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và xóa mù chữ; số lượng sinh viên theo học đại học, cao đẳng ngày càng gia tăng. Hệ thống bảo hiểm y tế được mở rộng cả về bắt buộc và tự nguyện; các đối tượng yếu thế như người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia có tốc độ phát triển Internet nhanh hàng đầu thế giới, được Liên Hợp Quốc ghi nhận là một trong những nước đi đầu trong thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố, tăng cường; chủ quyền quốc gia, môi trường hòa bình và ổn định luôn được bảo đảm; trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Từ một quốc gia từng bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã mở rộng và làm sâu sắc quan hệ ngoại giao với 193 nước trên thế giới. Trong đó, có 13 nước là Đối tác Chiến lược Toàn diện: Trung Quốc (năm 2008), Liên bang Nga (năm 2012), Ấn Độ (năm 2016), Hàn Quốc (năm 2022), Mỹ (năm 2023), Nhật Bản (năm 2023), Ô-xtrây-li-a (năm 2024), Pháp (năm 2024), Malaysia (năm 2024), Niu Di-lân (năm 2025), Indonesia (năm 2025), Singapore (năm 2025) và Thái Lan (năm 2025). Với những thành tựu đạt được, chúng ta tự hào khẳng định rằng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[8].
3. Từ những thành tựu đạt được đã tạo tiền đề/điều kiện để đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vương mình của dân tộc Việt Nam: “đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng, từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh”[9].
Hiện nay, trong bối cảnh mới, diễn biến và cục diện thế giới thay đổi nhanh chóng, khó dự báo; cách mạng khoa học cộng nghệ và hội nhập quốc tế phát triển nhanh và sâu rộng, đang mở ra rất nhiều thời cơ thuận lợi để phát triển đất nước, đồng thời cũng có nhiều nguy cơ, thách thức đan xen. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi phải phát huy trí tuệ, bản lĩnh, tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, tranh thủ mọi thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, kết hợp sức mạnh nội tại của dân tộc với sức mạnh của thời đại xây dựng nước Việt Nam ngày càng to đẹp, đàng hoàng hơn như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng mong muốn. Để làm được điều đó, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong kỷ nguyên mới. Trong đó, cần thực hiện có hiệu quả những nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, làm sâu sắc và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới của đất nước và thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, yêu cầu đặt ra là phải nhận diện rõ những thách thức và thời cơ mới, từ đó làm rõ được con đường phát triển phù hợp với thực tiễn, vừa giữ vững nguyên tắc, vừa sáng tạo trong vận dụng. Tăng cường giáo dục lý luận chính trị, nhất là trong thế hệ trẻ, có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm củng cố niềm tin khoa học vào con đường cách mạng mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân đã lựa chọn. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để chủ động phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ hai, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong toàn bộ quá trình hoạch định chủ trương và thực thi chính sách. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện, không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng khoa học, dân chủ, hiệu quả; bảo đảm sự thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân. Cùng với đó, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh, đặt nhân dân ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động, phát huy dân chủ thực chất, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên cả ba lĩnh vực: kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội là yêu cầu cấp thiết nhằm cụ thể hóa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết hợp hài hòa giữa hiệu quả kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Phải coi tăng trưởng kinh tế là nền tảng, đồng thời đặt con người là trung tâm, là động lực và mục tiêu của sự phát triển. Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học công nghệ, kinh tế số, kinh tế xanh và chuyển đổi năng lượng là những yêu cầu mang tính chiến lược. Cùng với đó, cần thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, bảo đảm cơ hội phát triển công bằng cho mọi tầng lớp nhân dân.
Thứ tư, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam phát triển toàn diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có tri thức và kỷ năng, giàu lòng yêu nước, có đạo đức, lối sống lành mạnh, năng lực sáng tạo và ý thức công dân trong thời đại hội nhập là trọng tâm lâu dài. Việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, kết hợp với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại sẽ góp phần hình thành nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Thứ năm, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh là điều kiện để giữ vững môi trường hòa bình cho phát triển đất nước. Đồng thời, kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế theo tinh thần “thêm bạn, bớt thù”, nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế, tích cực hội nhập sâu rộng để góp phần thúc đẩy hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững.
Như vậy, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là nhiệm vụ chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đây cũng là con đường hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đúng như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc thiêng liêng.
[[1]] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.461.
[[2]] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.2, tr.296.
[[3]] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd. t.12, tr.563.
[[4]] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.4, tr.64.
[[5]] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.15, tr.624.
[[6]] Xem: Phạm Minh Chính, Đổi mới, sáng tạo, tăng tốc, bứt phá, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc, Tạp chí Cộng sản, số 1.053+1.054 (1/2025), tr.20.
[[7]] Xem: Phạm Minh Chính, Tlđd, Tạp chí Cộng sản, số 1.053+1.054 (1/2025), tr.21.
[[8]] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.104.
[[9]] Tô Lâm, Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Tạp chí Cộng sản, số 1.050 (11/2024), tr.3-4.
Ban Biên tập Cổng TTĐT
Tag:
Tổng biên tập
Tọa đàm khoa học: “Triển khai các nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giảng dạy các chuyên đề Triết học Mác - Lênin thuộc chương trình đào tạo Cao cấp Lý luận chính trị ở Học viện Chính trị khu vực III hiện nay”
Tọa đàm khoa học: “Xây dựng động cơ vào Đảng cho thanh niên hiện nay”
Những dấu ấn nổi bật trong nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị khu vực III và định hướng, giải pháp
Những dấu ấn nổi bật trong công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị tại Học viện Chính trị khu vực III và định hướng giải pháp trước yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh mới
Học viện Chính trị khu vực III giai đoạn 2021- 2025 - thành tựu, kinh nghiệm và định hướng giải pháp
Địa chỉ: Số 232 Nguyễn Công Trứ Tp. Đà Nẵng
Email:
Liên hệ: 02363.831.174