Sign In

HÀNH TRÌNH HIỆN THỰC HÓA KHÁT VỌNG HÒA BÌNH CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

10:41 21/12/2025

Chọn cỡ chữ A a    

(HCMA3) - Trong suốt chiều dài lịch sử, hòa bình luôn là khát vọng thiêng liêng, là mục tiêu cao cả mà toàn dân tộc Việt Nam không ngừng nỗ lực tranh đấu nhằm hiện thực hóa. Trên hành trình hiện thực hóa khát vọng ấy, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã và đang giữ vai trò vô cùng quan trọng, không chỉ là lực lượng bảo vệ Tổ quốc mà còn là biểu tượng của ý chí, lòng nhân ái và tinh thần yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.


Ra đời từ khát vọng giành lại hòa bìnhcho dân tộc

Khát vọng về một nền hòa bình luôn là niềm mong ước của toàn nhân loại ở bất cứ thời đại lịch sử nào. Việt Nam - một dân tộc luôn phải đương đầu với nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của ngoại bang, luôn cảm thấu được ý nghĩa thiêng liêng của hai tiếng hòa bình. Cũng vì lẽ đó, sự ra đời của Quân đội Nhân dân Việt Nam rất đặc biệt: “Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, quyết đánh đuổi kẻ thù xâm lược để giành lại nền hòa bình, “chỉ cần vẹn đất, cốt sao yên dân”, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong bản Chỉ thị về việc thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gợi mở việc định tên và phương châm hoạt động là: “Tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”; “Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện”[1].

Thực hiện Chỉ thị của Người, sau một thời gian gấp rút chuẩn bị, vào lúc 17 giờ ngày 22/12/1944, tại Núi Dền Sinh, dãy Khau Giáng thuộc xã Tam Kim, Châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, chỉ với “một nhóm nho nhỏ con con đồng chí” (gồm 34 đội viên) “nhưng lòng kiên quyết rất to”, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay) được thành lập. “Giữa mùa đông, khí trời nơi non cao lạnh buốt, trong khu rừng đại ngàn, dưới lá cờ đỏ sao vàng tươi thắm”, đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt toàn Đội thể hiện quyết tâm: “…từ phút này trở đi, chúng ta cùng nhau tiến lên con đường vũ trang tranh đấu. Chúng ta nêu cao tinh thần anh dũng hy sinh. Chúng ta quyết tiến tới để làm tròn nhiệm vụ...[2]. Toàn Đội sau đó đã long trọng tuyên thệ 10 lời thề danh dự, nguyện: Hy sinh tất cả vì tổ quốc Việt Nam; dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phấn đấu thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”. Vừa mới ra đời, toàn Đội đã xuất quân và giành thắng lợi trong hai trận ở Phai Khắt (25/12/1944) và Nà Ngần (26/12/1944), mở đầu cho khí thế của toàn quân và toàn dân ta những ngày chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Trong ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, hình ảnh người chiến sĩ cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu: Đoàn quân Việt Nam đi. Chung lòng cứu quốc. Bước chân dồnvang trên đường gập ghềnh xa… Tiến lên! Cùng tiến lên! Nước non Việt Nam ta, vững bền[3]. Chính hào khí ấy của “Đoàn quân Việt Nam” đã cổ vũ tinh thần, nhiệt huyết và lòng yêu nước nồng nàn của toàn dân tộc Việt Nam vùng lên với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, góp phần quan trọng cho thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Lần đầu tiên trong lịch sử, ở một nước thuộc địa, với một đội quân (lực lượng vũ trang) chưa đông, nhưng dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng đã làm nên thắng lợi vĩ đại đầu tiên của thế kỷ XX, giành lại nền hòa bình, độc lập, tự do cho dân tộc.

30 năm quyết tâm chiến đấu để bảo vệ nền hòa bình cho dân tộc

Cách mạng Tháng Tám thành công, “nền hòa bình mong manh” khi dân tộc Việt Nam phải đương đầu với dã tâm xâm lược của thực dân Pháp lần thứ hai. Vì muốn hòa bình, Đảng ta nhất quán chủ trương cố gắng hòa hoãn, quân đội ta đã cố gắng kiềm chế giao tranh. Nhiều nỗ lực ngoại giao trong năm đầu tiên (1945-1946) đã diễn ra: thực hiện “giao thiệp thân thiện, nhân nhượng, tránh xung đột” với quân đội Trung Hoa Dân quốc; Ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ (6/3/1946); tiến hành đàm phán tại Hội nghị trù bị ở Đà Lạt (từ 19/4 đến 11/5/1946); tiến hành đàm phán chính thức ở Phôngtennơblô (từ 6/7 đến 10/9/1946); ký bản Tạm ước (14/9/1946)... Nhưng, các nỗ lực ngoai giao của Việt Nam vì một nền hòa bình đều bị đổ vỡ, bởi “chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa[4]. Điều này cho thấy, việc phải cầm súng chiến đấu là một giải pháp “cực chẳng đã”, bởi dân tộc Việt Nam không muốn chiến tranh. Nhưng đặt trong tình thế ở thời điểm đó, nếu quân ta không quyết chiến đấu thì chắc chắn không thể có được độc lập và thống nhất cho dân tộc, càng không thể có được nền hòa bình thực sự. Để thấy, nền hòa bình mà dân tộc Việt Nam tạo dựng hòan toàn không phải là một nền hòa bình được ban phát, mà phải dựa trên nguyên tắc: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, quyền làm chủ đất nước của nhân dân. Khi sự ngang ngược trắng trợn của thực dân Pháp vi phạm tới nguyên tắc cao nhất này đồng nghĩa với việc toàn quân cùng toàn dân ta đứng lên kháng chiến với tinh thần “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[5]. Đây chính là luận cứ nhằm phản bác lại quan điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch muốn lật lại lịch sử rồi đổi trắng thay đen, tung hô “Việt Nam hiếu chiến, nổ súng trước?!” Chính Jean Sainteny đã viết trong Hồi ký Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ (1954) như sau: “Chính phủ Pháp đã để vuột mất cơ hội kiến tạo nền hòa bình ở Việt Nam, gây nên những hậu quả nặng nề không chỉ cho các nước Đông Dương mà còn cho chính nước Pháp. Đồng thời, chiến tranh ở Đông Dương 1945 - 1954 còn để lại nhiều hệ lụy khác cho khu vực và thế giới”.

Trong suốt chín năm kháng chiến chống Pháp, quân đội ta không ngừng lớn mạnh với sự ra đời các đại đoàn: 308, 304, 312, 320, 316, 325, Đại đoàn Công pháo,... đã kề vai sát cánh cùng nhân dân tiến hành kháng chiến, quyết giành lại độc lập và nền hoà bình để gây dựng nước nhà. Nỗ lực hiện thực hoá khát vọng ấy đã rền vang từ vùng rừng núi Việt Bắc Thu Đông năm 1947 đến Biên giới Thu Đông năm 1950, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải công nhận nền độc lập, chủ quyền, lập lại nền hoà bình ở Đông Dương. Song, Hiệp định Giơnevơ chưa ráo mực thì đế quốc Mỹ ngang nhiên phá hoại, đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc kháng chiến trường kỳ suốt 21 năm ròng rã.

Trong thời kỳ lịch sử vô cùng gian nan đó, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và với niềm tin: “Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hòang hơn, to đẹp hơn!”, quân đội ta đã sát cánh cùng với nhân dân tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, giành được nhiều thắng lợi quan trọng như: Ấp Bắc (1/1963), Bình Giã (12/1964), Ba Gia (5/1965), Đồng Xoài (7/1965), làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”; chiến thắng Núi Thành, Vạn Tường, Bàu Bàn, Đất Cuốc, Plâyme, đặc biệt cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”; Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972 trên chiến trường Trị - Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ cùng với thắng lợi của quân dân miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ, mà đỉnh cao là chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” (12/1972); kết thúc thắng lợi bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, quân ta giải phóng Tây Nguyên (10/3/1975), giải phóng Huế (26/3), Đà Nẵng (29/3), 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, cờ chiến thắng đã cắm trên Dinh Độc Lập, đánh dấu thời khắc cả dân tộc hiện thực hóa được khát vọng thống nhất non sông, mở ra thời kỳ phát triển mới cho dân tộc. 

40 năm hiện thực hóa khát vọng dựng xây đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc

Sau ngày thống nhất, đất nước bước vào công cuộc đổi mới (12/1986). Để giữ vững và bảo vệ nền độc lập, hòa bình lâu dài cho dân tộc, quân đội ta dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những người lính tiếp tục viết tiếp truyền thống Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới: tham gia huấn luyện, xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, phấn đấu “đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ hiện đại, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”[6]. Sức mạnh của quân đội ta là cơ sở để Việt Nam “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước[7]; “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch… Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe doạ an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, phòng chống thiên tai, dịch bệnh... Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”[8]. Hình ảnh những người lính xông pha vào tâm dịch vì nghĩa đồng bào; hăng hái, tiên phong trong thực hiện nhiệm vụ, sẵn sàng hy sinh vì nhân dân trong thiên tai bão lũ xảy ra ở các tỉnh miền Bắc, miền Trung trong năm 2024, 2025 vừa qua,.... cho thấy, hiếm có một quân đội nào như Quân đội nhân dân Việt Nam! Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, gắn bó máu thịt với nhân dân: “quân và dân như cá với nước” “đi dân nhớ, ở dân thương”… Đó còn là một quân đội vì khát vọng hòa bình đã và đang thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả: năm 2013, Việt Nam chủ trì tổ chức thành công cuộc Diễn tập thực binh ASEAN về ứng phó thảm họa và cứu trợ nhân đạo; năm 2014, cử cán bộ tham gia quan sát viên Lực lượng gìn giữ Hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Sudan; cử lực lượng quân đội tham gia diễn tập trên thực địa về hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa và quân y tại Brunei; động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ; có nhiều đóng góp quan trọng vào các vấn đề an ninh, quân sự quốc phòng của Hiệp hội các nước ASEAN; có nhiều tham ý kiến đóng góp quan trọng trong xử lý các điểm nóng ở Biển Đông, trong khu vực và trên thế giới hiện nay.

Kỷ niệm 81 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam là dịp để chúng ta thêm một lần nhìn lại hành trình lịch sử, truyền thống vẻ vang của quân đội ta; càng vững tin về một nền hòa bình của dân tộc được dệt nên từ khát vọng chân chính. Đó không chỉ là điểm tựa mà còn là động lực để lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ hôm nay quyết tâm, nỗ lực duy trì hòa bình nhưng luôn sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong tình hình mới.

Ban Biên Tập Cổng TTĐT

    (Thực hiện: Cao Thị Hiệu)  


                                                                       


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, t.3, tr.539.

[2]Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb CTQG, H.2001, tr.134.

[3]Trích: “Tiến quân ca” của Cố nhạc sĩ Văn Cao (năm 1944).

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tâp, Sđd, H, 2011, t4, tr.534.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tâp, Sđd, H, 2011, t4, tr.534.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQGST, H, tr.157-158.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1,.. Sđd, tr.157.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1,... Sđd, tr.156.

Tổng biên tập

Alternate Text

Bình luận

Danh sách bình luận

Số lượng ý kiến bài viết: 0

Năm phát hành

Xem

Thống kê lượt truy cập

Lượt truy cập:

Khách online: