TS Vũ Anh Tuấn[1]
Đặt vấn đề
1. Thực trạng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
Từ sau khi có Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) trong phạm vi cả nước đã có nhiều thay đổi rất tích cực, không chỉ về nội dung, hình thức, phương pháp mà còn về hiệu quả của nó.Trong "Báo cáo tình hình công tác tư pháp năm 2024 và nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2025", Bộ Tư pháp đã đánh giá kết của công tác PBGDPL trong năm 2024: "... công tác truyền thông, phổ biến về chính sách, pháp luật được thực hiện hiệu quả"(2), được thể hiện trên một số phương diện chủ yếu sau đây:
Một là, công tác PBGDPL được triển khai thực hiện có trọng tâm, trọng điểm. Các hoạt động hưởng ứng Ngày pháp luật Việt Nam, thi tìm hiểu về pháp luật, đối thoại về chính sách, pháp luật, được triển khai đa dạng, phong phú với nhiều mô hình hay, cách làm mới. Các mô hình như “Ngày pháp luật Việt Nam (09/11)”, “Phiên tòa giả định”, “Tủ sách pháp luật điện tử”, “Pháp luật học đường”, “Câu lạc bộ thanh niên với pháp luật”, “Tuyên truyền pháp luật qua mạng xã hội”… được triển khai rộng rãi trong cả nước. Nhiều địa phương ứng dụng công nghệ thông tin trong PBGDPL, tiêu biểu như: thành phố Đà Nẵng xây dựng cổng thông tin phổ biến pháp luật điện tử với chuyên mục hỏi – đáp trực tuyến. Quảng Nam, Thừa Thiên – Huế (trước sáp nhập) đẩy mạnh hình thức tuyên truyền pháp luật qua các nền tảng mạng xã hội, video ngắn, infographic pháp luật. Trong hệ thống Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các học viện khu vực và trường chính trị, thường xuyên tổ chức tọa đàm, hội thảo, cuộc thi tìm hiểu pháp luật, góp phần nâng cao nhận thức pháp lý cho cán bộ, đảng viên và đoàn viên thanh niên…
Hai là, hệ thống tổ chức và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức PBGDPL ngày càng hoàn thiện. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo như Nghị định số 28/2013/NĐ-CP, Nghị định số 54/2017/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung) quy định chi tiết thi hành Luật PBGDPL. Hội đồng phối hợp PBGDPL được thành lập từ trung ương đến cơ sở, có vai trò quan trọng tạo sự thống nhất, đồng bộ trong triển khai. Bộ Tư pháp là cơ quan thường trực, giữ vai trò điều phối, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện PBGDPL trong cả nước.
Ba là, nội dung PBGDPL được chọn lọc phù hợp đối tượng, địa bàn dân cư, sát thực tế. Công tác PBGDPL đã gắn với những vấn đề nóng bỏng của đời sống: bảo vệ môi trường, phòng chống tham nhũng, an toàn giao thông, chuyển đổi số, an ninh mạng, phòng chống tội phạm công nghệ cao... Nhờ đó, nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân từng bước được nâng cao. Ở nhiều nơi, tình trạng vi phạm pháp luật trong cộng đồng dân cư giảm; các mô hình “Tổ tự quản pháp luật”, “Dòng họ pháp luật”, “Khu dân cư an toàn pháp lý”…đã phát huy hiệu quả tích cực trong cộng đồng, địa phương.
Bốn là, đội ngũ cán bộ, công chức, truyên truyền viên, hoà giải viên…tham gia công tác PBGDPL được củng cố, kiện toàn, đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ được nâng lên. Cùng với đó, việc áp dụng công nghệ mới, chuyển đổi số và sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong công tác PBGDPL đã góp phân nâng cao hiệu quả công tác cho đội ngũ này.
2. Một số hạn chế, bất cập 
Một là, nhìn tổng thể, nội dung PBGDPL còn dàn trải, thiếu trọng tâm, nhất là thiếu những nội dung chuyên sâu về các vấn đề "nóng" như: pháp luật mạng, bảo vệ trẻ em, pháp luật lao động, bình đẳng giới, v.v... Đồng thời, nhiều địa phương chưa thực sự quan tâm phổ biến, giải thích văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành. Nhiều nội dung của PBGDPL chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng và nhu cầu thông tin của họ, chưa phù hợp với từng loại địa bàn, gắn kết chặt chẽ với các nội dung giáo dục khác, nhất là giáo dục về quyền con người, quyền công dân. 
Hai là, hoạt động PBGDPL rất nhiều nơi còn mang tính hình thức, ít hiệu quả thực tế. Hình thức, phương pháp PBGDPL còn đơn điệu, thiếu sáng tạo và hấp dẫn. Việc ứng dụng các phương tiện hiện đại trong hoạt động PBGDPL còn ít ỏi, đơn lẻ. Chưa có nhiều trường hợp tận dụng hiệu quả tích cực của các nền tảng số (Facebook, Zalo, TikTok, YouTube) để tiếp cận người dân, đặc biệt là giới trẻ. Nhiều địa phương chưa xây dựng cổng thông tin pháp luật hoặc tuy đã có nhưng sử dụng kém hiệu quả. Ở các địa phương vùng sâu, xa, vùng có người là dân tộc thiểu số, cách thức, phương pháp phổ biến trực tiếp bằng lời nói chưa thật sự được chú trọng; còn thiếu tài liệu pháp luật được đơn giản hóa về nội dung, phù hợp về ngôn ngữ. Việc kiểm tra, đánh giá (sơ kết, tổng kết) hoạt động PBGDPL chưa thường xuyên, hình thức, thiếu khách quan vì chỉ nói nhiều về kết quả, ít nói hạn chế, yếu kém và thường không rút kinh nghiệm.
Ba là, nhiều Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL các cấp hoạt động còn hình thức, chưa thực sự phát huy vai trò chỉ đạo phối hợp công tác PBGDPL. Nhân lực làm công tác PBGDPL tuy không thiếu về số lượng nhưng chủ yếu là kiêm nhiệm, cơ cấu chưa hợp lý, rất ít người được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và kỹ năng nên chưa thật sự đáp ứng yêu cầu công tác. Cùng với đó, kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho công tác PBGDPL chưa đáp ứng được với yêu cầu trong điều kiện hiện nay; đặc biệt ở cấp xã, ở các địa bàn miền núi. Việc huy động các nguồn lực hỗ trợ, xã hội hóa công tác PBGDPL còn gặp rất nhiều khó khăn.
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động PBGDPL trong tình hình mới
Một là, cần tiến hành tổng kết 05 năm thực hiện Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư "về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân" và Quyết định số 1521/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 80-KL/TW ngày 20 tháng 6 năm 2020 của Ban Bí thư, bằng hình thức phù hợp. Trên có sở đó, xác lập, chuẩn hoá các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động PBGDPL trên cơ sở xem xét hợp lý mục tiêu đề ra, kết quả thực tế với chi phí ở mức độ có thể chấp nhận.
Hai là, với sự chủ trì của Bộ Tư pháp, cần kịp thời nghiên cứu, xây dựng chiến lược về PBGDPL phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới trong đó, cần lưu ý gắn kết chặt chẽ PBGDPL với phổ biến, giáo dục Đề án của Chính phủ về tăng cường năng lực pháp luật cho người dân; giáo dục về quyền con người. Nghiên cứu, xây dựng những chương trình PBGDPL theo hướng chuyên biệt hóa đối tượng.
Ba là, nhanh chóng, mạnh mẽ và rộng rãi hơn trong đổi mới cách thức tổ chức, hình thức, phương pháp PBGDPL phù hợp với xu thế, đòi hỏi của Cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số trên thế giới, khu vực và yêu cầu của Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị "về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia". Trước mắt, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan cần nhanh chóng giải quyết những vướng mắc (về cơ sở pháp lý, nhân lực chuyên môn, phối hợp đa ngành...) để hoàn thiện, ban hành Đề án “Chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2025-2030”.
Bốn là, cần đánh giá khách quan để cải tổ Hội đồng phối hợp PBGDPL trong đó, chú trọng đổi mới cơ chế để xây dựng nguồn nhân lực làm công tác PBGDPL thật sự có tâm huyết, kỹ năng chuyên môn, đáp ứng yêu cầu công việc. Trước mắt, tiếp tục tháo gỡ khó khăn để triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án “Nâng cao năng lực cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2024 - 2030”.
Năm là, tăng cường đầu tư hợp lý, thoả đáng về tài chính, điều kiện vật chất cho hoạt động PBGDPL. Theo đó, cần thực hiện phân bổ kinh phí riêng cho hoạt động PBGDPL trong dự toán hằng năm của các bộ, ngành, địa phương. Ưu tiên đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo - nơi người dân còn nhiều hạn chế tiếp trong cận pháp luật. Ứng dụng công nghệ số để tiết kiệm chi phí; áp dụng khoán chi, đặt hàng nhiệm vụ hoặc đấu thầu dịch vụ công cho các đơn vị thực hiện hoạt động PBGDPL. Cùng với đó, tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng kinh phí, chống tham nhũng, lãng phí trong hoạt động PBGDPL. Đồng thời, tạo lập cơ chế hợp lý, hiệu quả để xã hội hóa công tác PBGDPL bằng sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức nghề nghiệp cùng tham gia hoạt động PBGDPL. Chú trọng tôn vinh, khen thưởng các tổ chức, cá nhân có đóng góp tích cực trong công tác PBGDPL. Tăng cường hợp tác quốc tế để có thể tận dụng nguồn lợi về tri thức, kinh nghiệm, công nghệ và đầu tư tài chính của họ cho hoạt động PBGDPL.
Chú thích
(1) Xem Điều 1- Điều 2 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012
(2) Báo cáo số 572/BC-BTP ngày 31 tháng 12 năm 2024 của Bộ Tư pháp tình hình công tác tư pháp năm 2024 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2025/https://pbgdpl.travinh.gov.vn/hoat-dong-hoi-dong-pbgdpl-tinh/bao-cao-so-572-bc-stp-ngay-31-thang-12-nam-2024-cua-bo-tu-phap-tinh-hinh-cong-tac-tu-phap-nam-20-730802 (truy cập ngày 30/10/2025)
[1] Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị Khu vực III