
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Tuyên ngôn độc lập năm 1945 - Bản hùng ca bất hủ của một dân tộc quật cường trên hành trình giữ nước
Lịch sử hàng nghìn năm chống ngoại xâm đã hun đúc nên trong tâm hồn người Việt khát vọng mãnh liệt về độc lập và tự chủ. Đúng là, không ai hiểu giá trị ấy hơn một dân tộc từng trải qua nghìn năm bị đô hộ, bao thế kỷ mất nước! Trên hành trình dựng nước và giữ nước, dân tộc ta từng viết nên những bản hùng ca như:“Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ” hay “Bình Ngô đại cáo”. Tuy nhiên, những bản hùng ca này chủ yếu mới chỉ khẳng định quyền độc lập của quốc gia. Khác với các bản hùng trước, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 khẳng định độc lập không chỉ cho đất nước mà còn cho mỗi con người. Độc lập dân tộc gắn liền với quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của mỗi người dân. Một quốc gia độc lập là nơi người dân được làm chủ vận mệnh của chính mình, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Đây là thông điệp nhân văn sâu sắc và trường tồn.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Từ chính thời khắc ấy, một dân tộc nhỏ bé ở Đông Nam châu Á sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp và phát xít Nhật đô hộ đã bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do bằng chính sức lực, máu xương, tuổi xuân và khát vọng của biết bao thế hệ; bằng những dòng chữ đanh thép, vừa mang tầm vóc thời đại, vừa thấm đẫm hồn thiêng sông núi.
Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là một văn kiện có cấu trúc chặt chẽ, mạch lạc. Mở đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 của Pháp: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc; “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”[1]. Với việc trích dẫn này, Người khẳng định những quyền thiêng liêng của con người, đồng thời khéo léo sử dụng những giá trị chung của nhân loại để làm nổi bật tính chính nghĩa của cách mạng Việt Nam. Tiếp đó, Người tố cáo mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp trong hơn 80 năm đô hộ đất nước ta: Bóc lột kinh tế, đàn áp chính trị, chia rẽ dân tộc, lừa bịp dư luận và bán nước ta cho phát xít Nhật. Cùng với đó, Người nhấn mạnh chính nhân dân Việt Nam đã đứng lên giành lại độc lập qua Tổng khởi nghĩa tháng Tám chứ không phải do ai ban phát. Vì vậy, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và thực tiễn để tuyên bố độc lập, thoát khỏi ách thống trị của thực dân, phát xít: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành nước tự do và độc lập”[2]. Cuối cùng, Tuyên ngôn khẳng định quyết tâm và ý chí sắt đá của dân tộc Việt Nam trong việc bảo vệ nền độc lập, chủ quyền và kêu gọi sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế.

Từng câu chữ trong Tuyên ngôn là nhịp đập từ trái tim của hàng triệu người Việt, là tiếng nói của lẽ phải và lòng yêu nước cháy bỏng của một dân tộc quật cường. Dù sau đó đất nước lại rơi vào chiến tranh, song chính từ tinh thần Tuyên ngôn ấy, cả dân tộc đã đứng dậy, đoàn kết một lòng như lời Người nói trong Tuyên ngôn: “Quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[3]. Nhờ thế, những trang sử hào hùng sau này được viết tiếp bằng lòng tin bất diệt vào con đường mà Tuyên ngôn độc lập đã mở ra.
Bằng lý lẽ sắc sảo, chứng cứ thuyết phục và tinh thần yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biến Tuyên ngôn độc lập không chỉ thành văn kiện pháp lý khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, mà còn là một bản hùng ca mang tầm vóc nhân loại, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, đặc biệt là ở châu Á, châu Phi.
Về đối nội, Tuyên ngôn cổ vũ tinh thần đoàn kết, khơi dậy ý chí tự cường, đưa cả dân tộc đồng lòng bước vào cuộc kháng chiến vì độc lập - thống nhất. Về đối ngoại, Tuyên ngôn đặt nền móng cho tư tưởng độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác; tinh thần “không chịu làm nô lệ cho bất kỳ thế lực nào”trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình bảo vệ chủ quyền, từ Điện Biên Phủ năm 1954 đến Tổng Tiến công và nổi dậy Xuân 1975, thống nhất đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng ngày hôm nay.
Nhìn từ hiện tại, Tuyên ngôn Độc lập vẫn mang giá trị bền vững. Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, các cuộc chiến tranh cục bộ vẫn diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới, chủ nghĩa đơn phương trỗi dậy, luật pháp quốc tế nhiều khi bị xem nhẹ, Tuyên ngôn độc lập vẫn nhắc nhớ rằng: không một nền độc lập nào được ban phát, chỉ có thể giành lấy bằng ý chí, quyết tâm và sức mạnh dân tộc. Độc lập hôm nay không chỉ là giữ vững từng tấc đất, từng ngọn sóng quê hương, mà còn là tự chủ trong chính sách, phát triển bền vững và bảo vệ lợi ích quốc gia trước mọi sức ép.
Biển Đông - vùng địa chiến lược quan trọng của châu Á - Thái Bình Dương đang trở thành nơi tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn. Những hành vi quân sự hóa, áp đặt yêu sách chủ quyền phi pháp trên Biển Đông đang đe dọa chủ quyền, an ninh biển đảo của Việt Nam và hòa bình khu vực. Trước tình hình đó, tinh thần Tuyên ngôn độc lập là kim chỉ nam giúp Việt Nam kiên định bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.
Không chỉ vậy, chủ quyền quốc gia ngày nay còn mở rộng sang không gian mạng, công nghệ, tài chính và dữ liệu. Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu nên phải đối mặt với nhiều thách thức như kiện phòng vệ thương mại, thuế chống bán phá giá hay sức ép chuyển chuỗi cung ứng, công nghệ… Điều này buộc Việt Nam phải có nhận thức và chiến lược bảo vệ chủ quyền toàn diện hơn. Hơn nữa, bên trong, đất nước còn nguy cơ từ tham nhũng, lãng phí, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” làm suy yếu sức mạnh dân tộc. Vậy nên, giữ vững độc lập còn là giữ vững niềm tin của dân tộc.
Ngoài ra, các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả cách mạng thì việc bảo vệ, phát huy giá trị của Tuyên ngôn độc lập càng trở nên cấp thiết. Giáo dục lịch sử, khơi dậy lòng yêu nước trong thế hệ trẻ là nền tảng để giữ gìn tinh thần yêu nước gắn liền với ý chí tự lực, tự cường.

Tuyên ngôn độc lập đang tiếp tục soi sáng con đường Việt Nam đi tới hiện thực hoá khát vọng hung cường, thịnh vượng
Từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đến khát vọng Việt Nam hùng cường trong kỷ nguyên mới
80 năm đã qua trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, nhưng Tuyên ngôn ấy vẫn vang vọng trong lòng dân tộc, không chỉ như kỷ vật quá khứ mà như lời hiệu triệu lan tỏa vào từng hơi thở của sự phát triển đất nước.
Ngày nay, Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ. GDP năm 2024 đạt hơn 476 tỷ USD[4], xuất khẩu vượt 405 tỷ USD[5], vị thế quốc tế ngày càng được khẳng định qua các hoạt động ngoại giao đa phương và song phương, Việt Nam đã trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Từ vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (2020 - 2021) đến các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP… cho thấy một Việt Nam hội nhập sâu rộng và toàn diện hơn bao giờ hết.
Khi cả dân tộc hướng đến mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 thì một Việt Nam hùng cường nhưng luôn độc lập và tự chủ là hình ảnh rõ ràng nhất cho giấc mơ màTuyên ngôn độc lập đã khơi mở. Tuy nhiên, quá trình này khiến Việt Nam phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường, công nghệ và vốn quốc tế nên tiềm ẩn không ít rủi ro. Việc Mỹ áp thuế đối ứng lên nhiều hàng hoá của Việt Nam cho thấy độc lập kinh tế và tự chủ trong chuỗi giá trị toàn cầu là thách thức lớn. Vậy nên, độc lập hôm nay không chỉ là không có ngoại xâm, mà còn là không để quốc gia khác thao túng hoặc bóp nghẹt nền kinh tế nước ta bằng thuế quan hay công nghệ.
Trong thời đại số, trí tuệ nhân tạo, tài chính xuyên biên giới, để độc lập rất cần năng lực nội tại, sự tự chủ về kinh tế, công nghệ, thể chế và nhân lực chất lượng cao. Giữ vững tinh thần của Tuyên ngôn không chỉ là giữ biên giới lãnh thổ, mà còn là giữ không gian mạng, dữ liệu quốc gia, hệ thống tài chính - tiền tệ và tư duy độc lập trong hoạch định chính sách, trong quyết định phát triển kinh tế - xã hội, trong lựa chọn mô hình giáo dục, công nghệ, văn hóa, trong chuyển đổi năng lượng, an ninh lương thực và đặc biệt là khả năng dẫn dắt đất nước qua các chuỗi khủng hoảng toàn cầu.
Mỗi bước đi hôm nay là tiếp nối Tuyên ngôn hôm qua. Mỗi hiệp định thương mại, mỗi diễn đàn quốc tế, mỗi lần đấu tranh về Biển Đông hay thuế quan đều khẳng định: Việt Nam tự do, độc lập, có chủ quyền, sẵn sàng sánh vai cùng cường quốc năm châu. Thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay, trong thời đại trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số và hội nhập sâu rộng cần khơi dậy tinh thần Tuyên ngôn: dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì một Việt Nam hùng cường, phồn vinh, bền vững; sống yêu thương, biết ơn, đoàn kết và sẵn sàn khi Tổ quốc cần.
Mỗi khi đất nước đối mặt thử thách, lời Tuyên ngôn năm nào lại vang lên như khúc tráng ca mở lối, là lời thề thiêng liêng, bất diệt: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[6].
Giá trị lịch sử và thời đại của Tuyên ngôn vẫn tiếp tục soi sáng con đường Việt Nam đi tới: một dân tộc độc lập, một đất nước hùng cường, một quốc gia có trách nhiệm và vị thế trong cộng đồng quốc tế. Giữ vững tinh thần ấy là giữ gìn di sản cha ông để lại và viết tiếp những trang Tuyên ngônmới bằng chính công cuộc dựng xây và bảo vệ Tổ quốc trong thế kỷ XXI, khi mà ranh giới giữa chiến tranh và hòa bình, giữa độc lập và phụ thuộc, giữa cơ hội và thách thức trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 vẫn mãi là ánh sáng dẫn đường cho Việt Nam vững bước.
Ban Biên tập Cổng TTĐT
(Thực hiện: TS Dương Thị Thúy Hiền -
Khoa Chính trị và Quan hệ quốc tế)
[1] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội t.4, tr.1.
[2] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội t.4, tr.3.
[3] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội t.4, tr.3.
[4] Phương Dung (2025), GDP năm 2024 tăng 7,09%, https://vnexpress.net/gdp-nam-2024-tang-7-09-4835950.html
[5] Phan Trang (2025), Xuất nhập khẩu năm 2024 “cán mốc” 786 tỷ USD, https://baochinhphu.vn/xuat-nhap-khau-nam-2024-can-moc-786-ty-usd-102250106141936953.htm
[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội t.4, tr.3.