xem cỡ chữ
T
Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật có vai trò hết sức quan trọng. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải thượng tôn pháp luật. Không ai được đứng trên, đứng ngoài pháp luật, mọi hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Vai trò của pháp luật trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được thể hiện trên một số phương diện cơ bản sau:
Trước hết, pháp luật tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc cho định hướng chủ trương xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Ở Việt Nam, sự ghi nhận pháp lý về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện đầu tiên trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Cụ thể, tại Điều 2 nêu rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giải cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Trên thế giới, các chính quyền nhà nước cho dù được tạo nên bằng con đường nào thì sự tồn tại của nó đều cần đến một sự hợp pháp, chính danh. Sau những cuộc đấu tranh giành quyền lực, lực lượng nào giành được chính quyền cũng luôn tìm cách hợp pháp hóa sự tồn tại bằng cách tổ chức bầu cử Quốc hội, biên soạn Hiến pháp và tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở Hiến pháp. Sự hợp pháp không chỉ có ý nghĩa đối với nhà nước mà còn có ý nghĩa chi phối mạnh mẽ đối với cả những lực lượng đối lập với nhà nước, đi ngược lại với chủ trương định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền. Ở Việt Nam, việc ghi nhận nhà nước pháp quyền XHCN vào Hiến pháp chính là cơ sở pháp lý cao nhất thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng hướng tới xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Thứ hai, pháp luật là công cụ bảo vệ nhà nước, tạo khuôn khổ pháp lý cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Pháp luật là hành lang pháp lý cho sự vận hành cũng như bảo vệ các tổ chức, cá nhân hoạt động trong bộ máy nhà nước. Pháp luật quy định con đường hình thành, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan nhà nước. Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực được chia thành ba quyền gồm: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Pháp luật thiết lập khuôn khổ cho hoạt động của các nhánh quyền lực, thiết lập hình thức, phương pháp, nguyên tắc, cách thức hoạt động của các cá nhân, tổ chức nhà nước trong bộ máy. Nhờ có pháp luật, các cơ quan, nhân viên nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình đúng đắn và hiệu quả theo nguyên tắc “chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép”. Pháp luật là công cụ sắc bén để nhà nước tự bảo vệ mình, ngăn chặn các hành vi chống đối chính quyền, làm suy giảm uy tín và sức mạnh của chính quyền. Nhờ có pháp luật, nhà nước được bảo vệ an toàn, tính tôn nghiêm của chính quyền được nâng cao. Nhờ có pháp luật, các nhân viên nhà nước được sống, làm việc trong môi trường an toàn, tạo tiền đề để thực hiện tốt chức năng tổ chức và quản lí các mặt của đời sống xã hội. Pháp luật cũng là cơ sở cho việc giáo dục ý thức trách nhiệm, thái độ của đội ngũ nhân viên nhà nước trong quá trình thực thi công vụ. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, mỗi nhân viên nhà nước phải nỗ lực học tập và rèn luyện, nâng cao phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của công việc trong cương vị được giao đảm trách. Và cũng nhờ có pháp luật, việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trở nên khoa học, đồng bộ, nhịp nhàng, tránh được sự chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ trống trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Thứ ba, pháp luật là công cụ kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Thực tiễn đã chứng minh rằng, nhà nước luôn luôn có xu hướng lạm quyền, độc quyền, tha hoá quyền lực. Chính vì vậy, để bảo đảm quyền con người, bảo đảm quyền công dân, đảm bảo dân chủ trong xã hội đòi hỏi phải có sự giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây là công việc rất khó khăn, phức tạp, được thực hiện bằng nhiều phương thức, trong đó pháp luật là phương thức kiểm soát quan trọng và hiệu quả nhất. Pháp luật quy định việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, chế độ trách nhiệm của các cơ quan, nhân viên nhà nước, quy định các biện pháp chế tài đối với hành vi lạm quyền, tham nhũng... của các cơ quan, nhân viên công quyền. Pháp luật quy định cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, bao gồm cơ chế kiểm soát bên trong nội bộ bộ máy nhà nước và cơ chế kiểm soát bên ngoài đối với bộ máy nhà nước. Nhấn mạnh nội dung này, Hiến pháp năm 2013 bổ sung yếu tố “kiểm soát” quyền lực nhà nước tại Khoản 3, Điều 2: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Để làm được điều này, pháp luật quy định việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, chế độ trách nhiệm của các cơ quan, nhân viên nhà nước, các chế tài đối với hành vi lạm quyền, tham nhũng, quy định cơ chế kiểm soát đối với bộ máy nhà nước.
Thứ tư, pháp luật là công cụ để nhà nước tổ chức và quản lí mọi mặt của đời sống xã hội, tạo hành lang pháp lý cho sự vận hành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Quản lí xã hội là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải được thực hiện trên cơ sở một hệ thống thể chế rõ ràng, minh bạch. Để quản lí xã hội, có nhiều công cụ khác nhau như pháp luật, đạo đức, phong tục, tập quán, tín điều tôn giáo, quy định của các cộng đồng dân cư, của các tổ chức xã hội...Với những đặc điểm của pháp luật như tính quyền lực nhà nước, tính bắt buộc chung, tính cưỡng chế, tính xác định về hình thức, tính quy phạm phổ biến...pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh chóng, đồng bộ, có hiệu quả và thống nhất trên quy mô cả nước. Do vậy, pháp luật đã trở thành công cụ quan trọng, có hiệu quả nhất để nhà nước tổ chức và quản lí các mặt của đời sống xã hội. Thông qua pháp luật, nhà nước đề ra các kế hoạch và chính sách đối nội, đối ngoại, quản lý các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế, đảm bảo an ninh, quốc phòng, đặc biệt tập trung phát triển kinh tế, tạo động lực phát triển các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Thứ năm, pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN còn có vai trò to lớn trong việc bảo đảm dân chủ, bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội. Pháp luật quy định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, đảm bảo cho nhân dân tham gia quản lí nhà nước và xã hội, thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước, quy định trách nhiệm của nhà nước trước nhân dân. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN là phương tiện để nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, giữ gìn an ninh, an toàn xã hội cho con người. Pháp luật bảo đảm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho mọi tầng lớp trong xã hội, nhất là nhóm những người yếu thế. Pháp luật cũng là công cụ quan trọng để ghi nhận và bảo vệ cái mới, tích cực, tiến bộ, thúc đẩy xã hội phát triển, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của con người ngày càng được nâng cao, có điều kiện phát huy tài năng, phát triển toàn diện, các giá trị con người ngày càng được tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ.
Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản. Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội”[1]. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống pháp luật của nhà nước ta vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định. Việc phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được chú trọng. Công tác thi hành pháp luật và thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật của các cơ quan chức năng còn nhiều bất cập, kinh nghiệm xây dựng hệ thống pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật còn nhiều hạn chế...
Công cuộc đổi mới, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta đang đặt ra nhiều yêu cầu, trong đó có yêu cầu phải tăng cường hơn nữa vai trò của pháp luật. Việc nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp luật không chỉ nhằm lập lại trật tự, kỷ cương xã hội mà còn tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển ý thức pháp luật tiến bộ. Nghị quyết số 27-NQ/TW Về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới nêu rõ mục tiêu hướng tới: “Xây dựng một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán”. Cùng với mục tiêu tháo gỡ “điểm nghẽn” thể chế để phục vụ phát triển, đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ nhiều biện pháp quan trọng:
Một là, cần phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc hơn nữa vai trò của pháp luật trong việc xây đựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Pháp luật là công cụ chủ yếu để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật không chỉ là bộ quy tắc bắt buộc mà còn là biểu hiện của ý chí nhân dân, do nhân dân làm chủ. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hướng đến việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân và thúc đẩy sự phát triển toàn diện của xã hội; và chỉ có thể được xây dựng vững chắc khi toàn xã hội nhận thức đầy đủ về vai trò của pháp luật. Pháp luật không chỉ là công cụ quản lý mà còn là nền tảng cho sự phát triển, bảo đảm công bằng và thúc đẩy quyền con người. Vì vậy, mỗi cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước cần nâng cao ý thức pháp luật, đóng góp vào việc xây dựng một xã hội văn minh, pháp quyền.
Hai là, tiến hành xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật với phương châm chỉ đạo của Đảng là: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật”. Trên cơ sở đó, tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, nhất là đổi mới phương thức thảo luận, cho ý kiến về các dự án luật, nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc thảo luận tại hội trường, thảo luận tại tổ đại biểu Quốc hội; tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, nhất là giám sát đối với công tác tổ chức thi hành pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật, kịp thời đề xuất các cơ quan liên quan khẩn trương sửa đổi, bổ sung văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết có phát sinh vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành.
Ba là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm tính chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả. Quy định rõ hơn quy trình xây dựng chính sách, phân định rõ quy trình lập pháp và quy trình lập quy. Phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể, đặc biệt là Chính phủ trong quy trình lập pháp. Phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp trong hoạt động phản biện xã hội đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội, giải trình và tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Thực hiện lấy ý kiến của nhân dân theo hướng phân loại đối tượng cụ thể để lấy ý kiến về những vấn đề còn nhiều bàn luận, tranh cãi, vấn đề liên quan trực tiếp đến đối tượng điều chỉnh của pháp luật, tránh xin ý kiến tràn lan, không trọng tâm, trọng điểm hoặc mang tính hình thức.
Bốn là, tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong đó có vai trò chủ đạo của Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, sự phối hợp giữa Sở Tư pháp và các sở, ban ngành tại địa phương trong công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, các nhiệm vụ công tác pháp chế khác để kịp thời giải đáp, tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình thực hiện. Bộ Tư pháp cần nghiên cứu, tổng hợp các vướng mắc trong quá trình triển khai thi hành Luật và các Nghị định hướng dẫn Luật để có định hướng sửa đổi, bổ sung trong trường hợp cần thiết hoặc có hướng dẫn cụ thể thống nhất trong quá trình thực hiện; hướng dẫn cho các bộ, ngành khi gặp khó khăn, vướng mắc trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Bảo đảm đồng bộ, kịp thời trong xây dựng chính sách, pháp luật giữa Quốc hội với Chính phủ, giữa các bộ, giữa trung ương và địa phương.
Năm là, tiếp tục đổi mới tư duy, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật. Xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật là hai lĩnh vực hoạt động quan trọng của quyền lực nhà nước có mối quan hệ mật thiết, là tiền đề và điều kiện hỗ trợ cho nhau. Trong nhà nước pháp quyền XHCN, yêu cầu về sự gắn kết lại càng phải cao hơn, chặt chẽ hơn để nguyên tắc “thượng tôn pháp luật” được đảm bảo trong đời sống xã hội. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thực hiện pháp luật đòi hỏi phải tiếp tục cải tiến quy trình xây dựng pháp luật theo phương châm gọn, thông thoáng, tiện lợi, đảm bảo nguyên tắc khoa học và pháp chế, đáp ứng yêu cầu thực hiện mục tiêu xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật cần đổi mới mạnh mẽ về tư duy, phương thức, bảo đảm đủ nguồn lực, lấy chính quyền cơ sở làm hạt nhân, người dân và doanh nghiệp là trọng tâm. Đặc biệt, khi đánh giá hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật không chỉ tập trung ở tính kế hoạch, đồng bộ, hiệu quả chính trị, pháp lý mà còn phải rất quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội. Hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật sẽ phải được xem xét thông qua các tiêu chí như chi phí tuân thủ pháp luật phải tương xứng với kết quả đạt được so với mục tiêu đề ra. Đồng thời, cần chú trọng phát hiện các vấn đề của pháp luật thông qua sơ kết, tổng kết hoạt động tổ chức thi hành để phản ánh, hỗ trợ cho hoạt động xây dựng pháp luật để có sản phẩm hoàn thiện hơn. Mặt khác, gắn kết chặt chẽ xây dựng pháp luật với tổ chức thực hiện pháp luật phải được đặt trong tổng thể chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước.
Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là với các quốc gia có kinh nghiệm tốt trong việc hoàn thiện thể chế pháp luật. Chủ động, tích cực, vận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ, thông lệ quốc tế; hợp tác quốc tế. Nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật của các nước để vận dụng vào thực tiễn xây dựng pháp luật, tổ chức hiệu quả và tăng cường quản lý nhà nước về các hoạt động hợp tác quốc tế về công tác xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Hệ thống pháp luật đóng vai trò nền tảng trong việc đảm bảo trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi của công dân và thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bất kỳ hệ thống pháp luật nào cũng cần được hoàn thiện liên tục để thích ứng với sự phát triển không ngừng của xã hội. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát huy vai trò pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi tính tích cực, chủ động và sáng tạo của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Trong thời gian tới, cần phát huy những ưu điểm trong hoạt động xây dựng pháp luật, đồng thời, khắc phục những hạn chế còn tồn đọng, góp phần tạo dựng hành lang pháp lý, chuẩn mực hành vi cho các chủ thể trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Ban Biên tập cổng TTĐT
(Thực hiện: TS Hoàng Thị Thu Thủy)
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập I, tr.71-72.
Tag:
Tổng biên tập
Tọa đàm khoa học “Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới”
Vai trò của pháp luật trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tọa đàm khoa học “Trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm của Việt Nam và Trung Quốc về xây dựng đội ngũ cán bộ, cán bộ lãnh đạo tham mưu, tư vấn chính sách cấp chính quyền địa phương”
Hội thảo quốc tế: Hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa: Kinh nghiệm Việt Nam và Trung Quốc
Công tác nghiên cứu khoa học ở Học viện Chính trị khu vực III trong giai đoạn hiện nay
Địa chỉ: Số 232 Nguyễn Công Trứ Tp. Đà Nẵng
Email:
Liên hệ: 02363.831.174