PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM PHỦ NHẬN HỌC THUYẾT GIAI CẤP 

VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

TS PHẠM VĂN GIANG

Học viện Chính trị khu vực III

Học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp là một trong những nội dung quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin (CNMLN). Đây cũng là chủ đề luôn được các thế lực thù địch chống phá chủ nghĩa xã hội xuyên tạc, phủ nhận, nhất là trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của CNMLN là góp phần quan trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. 

Nhận diện quan điểm sai trái, thù địch

Suốt mấy thế kỷ qua, CNMLN luôn bị các phần tử cơ hội, thù địch bóp méo, xuyên tạc, phủ nhận. Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào; chủ nghĩa tư bản có vẻ hoàn hồn sau những cơn khủng hoảng, lại dương dương tự đắc, các thủ đoạn chống phá chủ nghĩa cộng sản lại trở nên nguy hiểm, tinh vi và xảo quyệt hơn. Lần này, thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch âm mưu đánh thẳng vào những nguyên lý cơ bản của CNMLN, nhằm phủ nhận hệ tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Trong hàng đống sách, báo, tài liệu chống cộng, dễ dàng nhận thấy người ta trương lên và tung hê luận điểm: học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của CNMLN hiện nay không còn giá trị. 

Những “nô bộc” trung thành của giai cấp tư sản đã lợi dụng những phát triển mới của chủ nghĩa tư bản, những tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đến đời sống sản xuất để từ đó, vẽ lên một tình hình dường như sự tồn tại của các giai cấp không còn được thực tế chứng minh, dường như trong xã hội tư bản ngày nay chỉ có các tầng lớp khác nhau, có thể đi đến “một thỏa thuận nào đó”, để cùng nhau xây dựng một xã hội công bằng mà ở đó mọi người đều có quyền lợi. Hòa tấu với họ còn có các phần tử cơ hội chủ nghĩa đủ mọi màu sắc nhân danh mác-xít để xuyên tạc học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của CNMLN.  

Trong số vô vàn những luận điệu chống phá, ở đây xin nêu lên một số luận điểm được họ lặp đi lặp lại như: 1- CNMLN quan niệm về giai cấp dựa trên các quan hệ kinh tế là áp đặt, tư biện chủ quan và không toàn diện. Xem đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất, cách mạng xã hội là đầu tàu của lịch sử là không phù hợp, chỉ là gây chia rẽ, cổ súy cho bạo lực, kích động quần chúng bạo loạn, lật đổ, gây đổ nát trong xã hội. 2- Ngày nay, chủ nghĩa tư bản đã thay đổi, mâu thuẫn giai cấp không còn đối kháng như trước. Xu thế hiện nay là lấy hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển làm mục tiêu, vì thế, không nên đề cập đến đấu tranh giai cấp, mà nên nhấn mạnh đến sự thống nhất, đồng thuận, hòa hợp vì sự phát triển nói chung của tất cả các quốc gia dân tộc. 3- Vận dụng học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp vào Việt Nam là sai lầm, không phù hợp, sẽ phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo ra xung đột, mâu thuẫn xã hội.

Cần nhấn mạnh rằng, sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực này trước đây, chỉ về mặt lý thuyết, nên tác hại của nó chỉ diễn ra trên lĩnh vực tư tưởng. Sau khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã ra đời, sự xuyên tạc, chống phá này đã được tiến hành một cách toàn diện và tác hại của nó diễn ra trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng. Âm mưu, mục tiêu của các thế lực thù địch là thông qua phủ nhận học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của CNMLN để đi đến bác bỏ sự tồn tại của giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên thế giới.  

Không thể phủ nhận học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin 

1. Trong lịch sử, vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp đã được nhiều nhà tư tưởng, trường phái triết học đề cập với những góc độ khác nhau, nhưng còn nhiều hạn chế. Trên cơ sở phê phán tính chất thần thánh, đồng thời kế thừa những quan niệm hợp lý trước đó, phân tích hiện thực xã hội đương thời, C.Mác đã đưa ra một sự luận giải khoa học về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. C. Mác cho rằng, “cái mới của tôi đã làm là chứng minh rằng: 1- Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất. 2- Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản. 3- Bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp”1

Như vậy, theo C. Mác, trong lịch sử không phải lúc nào cũng tồn tại giai cấp, và đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản. Nhưng chuyên chính vô sản chỉ là bước quá độ để đi đến xóa bỏ mọi giai cấp, xóa bỏ hoàn toàn chế độ người bóc lột người. Đây là điểm căn bản của học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp, được tổng kết và luận chứng từ đời sống xã hội hiện thực, chứ không phải là áp đặt, tư biện chủ quan của CNMLN. Đến nay, chưa có một học thuyết nào vượt qua được cách tiếp cận đúng đắn đó. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà xã hội học nổi tiếng ở phương Tây thừa nhận rằng: “C. Mác đã cung cấp cho xã hội học và chính trị học hiện đại những tiếp cận lý thuyết bao quát và mạnh mẽ nhất” và, “điều chắc chắn bất cứ lý thuyết phân tầng nào đều vay mượn của C. Mác cách lý giải về giai cấp, ngay dù nhà xã hội học đó kết thúc bằng cách bài bác C. Mác như là sai lầm và bị lịch sử vượt qua. Lý do “món nợ” là ở chỗ học thuyết C. Mác về xã hội chủ yếu dựa trên sự nghiên cứu các mối quan hệ kinh tế và các quan hệ kinh tế này lại tạo thành nền tảng của giai cấp”2

Trong xã hội hiện đại, cơ cấu xã hội phức tạp hơn trước đây, nên đã xuất hiện rất nhiều luận thuyết khi nghiên cứu về vấn đề này, nhất là ở những nước tư bản phát triển. Từ góc nhìn khoa học cụ thể, những luận thuyết này có những yếu tố hợp lý cần được ghi nhận. Nhưng những yếu tố hợp lý đó trên thực tế không phủ nhận hay bác bỏ được giá trị phương pháp luận của CNMLN về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp.

Trên tinh thần quan điểm duy vật lịch sử, CNMLN không bao giờ tách đấu tranh giai cấp khỏi hoạt động quan trọng nhất, cơ bản nhất của con người và loài người là sản xuất vật chất. Khi nói về điều này, Ph. Ăngghen viết: “Giống như Đác-uyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, C. Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người; cái sự thật giản đơn mà đã bị những tầng tầng lớp lớp tư tưởng phủ kín cho đến ngày nay là, con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo… được; vì vậy, việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật…”3. Như vậy, đối với C. Mác, hành động lịch sử đầu tiên của con người là sản xuất, tạo ra những cái cần thiết cho sự sống và đó là điều kiện cơ bản của mọi lịch sử. Trong thư gửi An-nen-cốp, C. Mác viết: “Quý vị hãy xét một trình độ phát triển nhất định của sản xuất, của trao đổi và tiêu dùng thì quý vị sẽ thấy một chế độ xã hội nhất định, một hình thức tổ chức nhất định của gia đình, của các đẳng cấp và giai cấp - tóm lại, quý vị sẽ thấy một xã hội công dân nhất định. Quý vị hãy xét một xã hội công dân nhất định thì quý vị sẽ thấy một chế độ chính trị nhất định, nó chỉ là sự thể hiện chính thức của xã hội công dân”4.

Từ những luận điểm trên cho thấy, C. Mác, Ph. Ăng-ghen và sau này là cả V.I. Lê-nin bao giờ cũng nhất quán với quan điểm cho rằng, sự phát triển của lực lượng sản xuất là cơ sở của toàn bộ lịch sử. Sự phát triển của tư liệu sản xuất là để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người là động lực thường xuyên và cơ bản của lịch sử. Vậy, điều đó có mâu thuẫn với luận điểm đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp, cách mạng xã hội là đầu tàu của lịch sử hay không? Câu trả lời là không có mâu thuẫn. Theo Ph. Ăngghen, chính vì sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội là cơ sở của lịch sử chính trị và tư tưởng của mỗi thời đại, nên lịch sử (các xã hội có giai cấp) biểu hiện ra như là lịch sử đấu tranh giữa các giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất mang tính cách mạng và các giai cấp đại biểu cho quan hệ sản xuất mang tính bảo thủ kìm hãm nó. Cuộc đấu tranh giải phóng lực lượng sản xuất, đồng thời là đấu tranh từng bước giải phóng con người, biểu hiện thành đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Các cuộc đấu tranh giai cấp là động lực thường xuyên và trực tiếp thúc đẩy xã hội phát triển từ hình thái xã hội này sang hình thái xã hội khác cao hơn.

Vì vậy, nếu nói học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của CNMLN chỉ gây chia rẽ, cổ súy cho bạo lực, kích động quần chúng bạo loạn, lật đổ, gây đổ nát trong xã hội là hoàn toàn không đúng. Trái lại, đây là học thuyết đề cao tinh thần đoàn kết, hòa bình vì mục tiêu và lợi ích chung là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Ngay trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản và nhiều tác phẩm khác sau này, C. Mác kêu gọi “vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”, về sau được V.I. Lênin phát triển thành “vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Hơn nữa, CNMLN cũng không phủ nhận đấu tranh giai cấp bằng con đường hòa bình, và thực tiễn ngày nay cũng không phủ nhận khả năng đó. Nhưng theo C. Mác, đây là con đường rất hiếm (vì ít khi xảy ra) nhưng rất quý (vì không phải đổ máu) mà vẫn giành được chính quyền. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, việc dùng bạo lực để thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên, các ông cũng cho rằng, việc xóa bỏ giai cấp tư sản bằng phương pháp hòa bình là điều đáng mong muốn đối với giai cấp công nhân. C. Mác đã nghĩ đến biện pháp “chuộc lại” thay vì tịch thu không bồi thường. Với câu hỏi: “Có thể thủ tiêu chế độ tư hữu bằng biện pháp hòa bình được không?”, Ph. Ăngghen trả lời rằng: “Có thể mong muốn là sẽ làm được như vậy, và dĩ nhiên những người cộng sản sẽ là những người sau cùng trong số những người phản đối việc đó”5. Về sau, V.I. Lênin cũng cho rằng: “Đương nhiên, giai cấp công nhân mong muốn giành lấy chính quyền bằng những biện pháp hòabình” và chỉ trong trường hợp “giai cấp tư sản sẽ không muốn nhượng bộ giai cấp vô sản một cách hòa bình, và rất có thể là vào lúc quyết định, giai cấp tư sản sẽ dùng bạo lực để bảo vệ đặc quyền đặc lợi của nó. Lúc đó, để đạt mục đích của mình, giai cấp công nhân chẳng còn có cách nào khác hơn là tiến hành cách mạng”6.

Thực tiễn cách mạng cho thấy, từ khi CNMLN ra đời đến nay chưa có cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nào giành được thắng lợi triệt để bằng con đường hòa bình cả. Trong một số thời điểm, ở một số quốc gia đảng cộng sản lên cầm quyền bằng con đường hòa bình, nhưng vẫn không thay đổi được chế độ chính trị. Vì vậy, không thể nói rằng học thuyết đấu tranh giai cấp của CNMLN là cổ súy cho bạo lực, kích động quần chúng, gây đổ nát cho xã hội được, mà muốn giành chính quyền, thay đổi chế độ thì bạo lực trở thành “bà đỡ” cho mọi cuộc cách mạng là vì vậy.

Đương nhiên, việc nhận thức và giải quyết vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp phải phù hợp với tình hình thực tiễn, điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi quốc gia dân tộc và phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Khi đề cập đến vấn đề này, Hồ Chí Minh cho rằng: “Ở phương Tây đấu tranh giai cấp rất quyết liệt, còn ở phương Ðông, những nước như Ấn Ðộ hay Trung Quốc về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây”7. Ðối với Việt Nam cũng vậy, vì Việt Nam vốn là một xã hội phương Ðông cổ truyền, phân hóa giai cấp chưa sâu sắc. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, yêu cầu đoàn kết dân tộc nổi lên hàng đầu để tập hợp các lực lượng, các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội để thực hiện nhiệm vụ cứu nước, giải phóng dân tộc. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã phê phán quan điểm giáo điều của một số người về đấu tranh giai cấp ở Việt Nam: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”8. Đồng thời, không được phép lẫn lộn quan điểm khoa học về đấu tranh giai cấp của CNMLN với quan điểm hữu khuynh phủ nhận đấu tranh giai cấp hoặc quan điểm tả khuynh cường điệu đấu tranh giai cấp, thiên về trấn áp bạo lực, hoặc mượn danh đấu tranh giai cấp để trấn áp bạo lực đều hoàn toàn sai lầm.

2. Nếu nói, ngày nay chủ nghĩa tư bản đã thay đổi, trong xã hội không còn mâu thuẫn giai cấp đối kháng, nên học thuyết đấu tranh giai cấp của CNMLN không còn phù hợp là hoàn toàn sai lầm. Một điều chúng ta không thể phủ nhận đó là chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có sự điều chỉnh quan hệ sản xuất, nhượng lại cho người lao động một số lợi ích nhất định. Nhưng điều đó không đồng nghĩa trong xã hội tư bản hiện nay không còn mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Khi nghiên cứu xã hội tư bản C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã từng chỉ rõ: “Xã hội tư sản hiện đại… không xóa bỏ được sự đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem những giai cấp mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thôi”9.

Dù có bất cứ ưu điểm gì, thì chủ nghĩa tư bản vẫn chứa đựng trong lòng nó một đặc trưng mang tính bản chất, đó là sự bất bình đẳng. Chủ nghĩa tư bản đang tạo ra sự phân chia giàu nghèo ngày càng lớn giữa các nước, cũng như giữa các cá nhân, giai tầng trong xã hội. Hiện tại, “chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc”10

Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí là 1% dân số nhưng chiếm phần lớn của cải xã hội. Bên cạnh những nhà tư bản giàu có là những người lao động sống dưới mức nghèo khổ, vô gia cư, thất học, không được chăm sóc y tế. Các phong trào biểu tình đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống chính phủ tư sản cắt giảm các chính sách phúc lợi xã hội trong thời gian gần đây là minh chứng cho sự bất bình đẳng của chủ nghĩa tư bản. Thực tế đó đang cho thấy, khủng hoảng kinh tế, chính trị và xã hội ở các nước giàu có nguồn gốc từ mô hình kinh tế của chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giới hạn, đứng trước sức ép phải thay đổi, trước hết về mô hình kinh tế và thể chế chính trị tương ứng. Vì vậy, chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại, thì bất bình đẳng xã hội, mâu thuẫn giai cấp không những không mất đi mà ngày càng sâu sắc, phức tạp hơn. 

Hiện nay, với khả năng thích ứng và tự điều chỉnh, chủ nghĩa tư bản đang tạm thời dung hòa được mâu thuẫn giai cấp. Do vậy, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang tạm thời lắng xuống, mang những “sắc thái mới”. Tuy nhiên, sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản chỉ đạt đến một giới hạn nhất định, với “những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản”11

Ngày nay, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn của thế giới. Các quốc gia, dân tộc có chế độ chính trị, xã hội khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh. Nhưng để từ đó cho rằng, không còn tồn tại sự khác biệt về ý thức hệ, không còn đấu tranh giai cấp là mơ hồ. Bởi vì hiện nay “cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế tiếp tục gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới”12. Để thực hiện tham vọng của mình, các nước tư bản thường xuyên tăng cường sức mạnh quân sự, sức mạnh bạo lực khi chính phủ tư bản các nước đua nhau tăng ngân sách cho quốc phòng để chạy đua vũ trang, đe dọa an ninh, hòa bình của thế giới. Hơn nữa, chủ nghĩa tư bản hiện đang coi chống chủ nghĩa cộng sản tương đương với cuộc chiến chống khủng bố13. Điều đó càng chứng tỏ chủ nghĩa tư bản đang ngày càng hung hăng, đã tạo ra những hố sâu ngăn cách, sự bất bình đẳng giữa các nước có chế độ chính trị, xã hội khác nhau trong tiến trình phát triển. 

Đây thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới, nó không biểu hiện trực diện ra bên ngoài như trước, nhưng cuộc đấu tranh của nhân dân tiến bộ thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc, thực dân kiểu mới, các thế lực cường quyền nước lớn vẫn diễn ra rất quyết liệt. Vì thế, “cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”14. Đó là quy luật phát triển tất yếu khách quan, là khát vọng của nhân loại từ hàng nghìn năm nay mà không một thế lực nào có thể ngăn cản.

3. Ở Việt Nam, ngày từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của CNMLN phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Với một nhãn quan chính trị nhạy bén, Hồ Chí Minh đã xem xét, đánh giá đúng vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp trong cách mạng dân tộc dân chủ. Người không “vơ đũa cả nắm”, khi cho rằng, về lợi ích kinh tế thì tư sản và địa chủ là những giai cấp bóc lột, đối lập với lợi ích cơ bản của công nhân và nông dân. Nhưng, xét về lợi ích dân tộc, trước hết là độc lập dân tộc, thì tư sản và địa chủ là những giai cấp không thuần nhất. Một bộ phận đi hẳn về phía thực dân, đế quốc (tư sản mại bản và đại địa chủ). Trong khi một bộ phận khác (tư sản dân tộc, phú nông, trung địa chủ, tiểu địa chủ, tiểu tư sản...) có thể đồng hành cùng dân tộc, họ “tuy hai mà một, một mà hai”. Vì vậy, trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quy tụ, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân trên nền tảng liên minh công, nông, trí thức.

Hiện nay, trong công cuộc đổi mới, với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, sẽ có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội cùng tồn tại, trong đó có “những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp”15, nên đấu tranh giai cấp là tất yếu. Tuy nhiên, khác với quan hệ giai cấp ở các nước tư bản, ở Việt Nam hiện nay “mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng”16. Ở Việt Nam, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không giữ địa vị thống trị, nên không có mâu thuẫn giai cấp đối kháng. Vì thế, đấu tranh giai cấp ở đây không có nghĩa là loại trừ nhau, mà đấu tranh trong nội bộ để các giai tầng tự hoàn thiện, vươn lên đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu ai đó hiểu đấu tranh giai cấp theo nghĩa là phải đối kháng loại trừ nhau, thì người đó chưa hiểu đúng hoặc cố tình không hiểu nhằm xuyên tạc học thuyết đấu tranh giai cấp của CNMLN. Vì vậy, ở Việt Nam, “nội dung chủ yếu đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự  nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”17.

Vì vậy, không thể nói vận dụng học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của CNMLN vào Việt Nam là sai lầm, không phù hợp được. Mà điều quan trọng là phải vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể. Đấu tranh ở đây không có nghĩa là phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, mà chính là thông qua đấu tranh để ngăn chặn, loại trừ những phần tử bảo thủ, thoái hóa, biến chất và chống đối nhằm củng cố, tăng cường và phát huy vai trò của đại đoàn kết dân tộc, “hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm,do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội”18.

Hiện nay, các thế lực thù địch đang ráo riết đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”; lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; chia rẽ các tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra mâu thuẫn, xung đột trong xã hội để làm suy yếu và lật đổ chế độ ta. Vì vậy, hơn bao giờ hết, chúng ta cần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, đồng thời tiếp tục nghiên cứu để thấy rõ đặc điểm, nội dung, hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực trong điều kiện mới. 

Có thể khẳng định, kể từ khi CNMLN ra đời cho đến nay, học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp vẫn còn nguyên giá trị. Những chỉ dẫn có tính phương pháp luận đó vẫn là cơ sở quan trọng để nhận diện, đánh giá quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp trên thế giới nói chung, trong các chế độ chính trị, xã hội nói riêng. Vì vậy, nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc, phủ nhận học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của CNMLN là nhiệm vụ quan trọng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.

1, 3, 4, 5, 9. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG - ST, H, 1996, t. 28, tr. 662; t. 19, tr. 499 - 500; t. 27, tr. 657; t. 4, tr. 469; tr. 597.

2. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sĩ Quý (đồng chủ biên): Những quan điểm cơ bản của C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin về Chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ, Nxb CTQG - ST, H,  1997, tr. 229 - 230.

6. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb CTQG - ST, H, 2005, t. 4, tr. 333 – 334.

7,8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG - ST, H, 2011, t. 1, tr. 509; t. 5, tr. 312.

10, 18. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 966 (5 - 2021), tr. 4, tr. 9.

11, 14. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG - ST, H,  2011, tr. 68 - 69, tr. 69.

12, 15. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG - ST, H,  2021, t. 1, tr. 105 - 106, tr. 108.

13. Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nxb CTQG - ST, H, 2006, tr. 12.

16, 17. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr. 85, tr. 86.