SỰ PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

TS. PHAN THỊ PHƯƠNG ANH*

TS. BÙI THỊ HUYỀN**

1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả với những nước đã có nền kinh tế phát triển, bởi lẽ ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao nhưng vẫn còn phải cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất  mới, xây dựng nền văn hóa mới. Dĩ nhiên, đối với những nước thuộc loại này, thời kỳ quá độ về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, có thể diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì càng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu. Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gô-ta, C. Mác khẳng định, “giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị”1. Phát triển quan điểm của C.Mác, V.I.Lênin cho rằng: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định”2. Theo Lênin, chủ nghĩa xã hội giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa không thể tự phát ra đời trong lòng xã hội cũ. Do đó, cần phải có một thời kỳ quá độ khá dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vì cải tổ sản xuất là việc khó khăn, vì cần phải có thời gian mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, và phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu tiểu tư sản và tư sản. Các nhà kinh điển đã nêu ra hai “kiểu” quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Quá độ trực tiếp là sự phát triển tuần tự từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội (chưa từng diễn ra) và quá độ gián tiếp (loại hình phát triển rút ngắn), bỏ qua chủ nghĩa tư bản, từ những xã hội tiền tư bản chủ nghĩa (hoặc chưa từng trải qua tư bản chủ nghĩa) lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, V.I. Lênin phân quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa cộng sản thành ba giai đoạn: (1) Giai đoạn “những cơn đau đẻ kéo dài” tức thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; (2) Giai đoạn đầu (thấp) của xã hội cộng sản chủ nghĩa tương ứng là chủ nghĩa xã hội; (3) Giai đoạn cao của xã hội cộng sản, chính là xã hội cộng sản chủ nghĩa đã ở mức độ hoàn bị đúng bản chất của nó. Như vậy, thời kỳ quá độ là một giai đoạn độc lập, có vị trí riêng biệt nằm giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, nó chưa phải là chủ nghĩa xã hội và cũng không nằm ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản3. Thời kỳ này bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền Nhà nước cho đến khi chủ nghĩa xã hội đã tạo ra được những cơ sở của mình trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ đó, các nhà kinh điển đã nêu ra hai “kiểu” quá độ lên chủ nghĩa xã hội: quá độ trực tiếp là sự phát triển tuần tự từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội (chưa từng diễn ra) và quá độ gián tiếp (loại hình phát triển rút ngắn), bỏ qua chủ nghĩa tư bản, từ những xã hội tiền tư bản chủ nghĩa (hoặc chưa từng trải qua tư bản chủ nghĩa) lên chủ nghĩa xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời có sự vận dụng, phát triển sáng tạo cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam. Người nhận thức rõ Việt Nam có đặc thù riêng, có phong tục, tập quán, lịch sử riêng, nên bên cạnh việc học tập kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa khác, cần phải có phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn với thực tiễn và lịch sử của Việt Nam. Hơn nữa, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, ngoài sự tác động của nhiều yếu tố khách quan, còn phụ thuộc vào nhận thức và quá trình hiện thực hóa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì không phải cứ ngồi mà chờ là sẽ có được chủ nghĩa xã hội. Trong đó, về mặt kinh tế, phải tạo ra những điều kiện cần và đủ về cơ sở vật chất; về mặt chính trị, Đảng phải lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Vận dụng và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định, theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội và kiên định con đường đó, điều này càng được thể hiện rõ hơn qua các thời điểm mang tính chất bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện, phù hợp với tiến trình phát triển và điều kiện lịch sử nhất định của từng thời kỳ.

2. Nhận thức của Đảng ta về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

Từ khi thành lập Đảng đến nay, Đảng ta luôn kiên định lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong Chính cương vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo khi thành lập Đảng (1930) đã khẳng định: “Đảng chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”4. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, tại Đại hội III (1960) của Đảng khẳng định đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Khi cả nước thống nhất, tại Đại hội IV (1976) Đảng ta khẳng định: “tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”5. Tuy nhiên, trong nhận thức về sự bỏ qua chế độ tư bản trong giai đoạn trước đây là đối lập hoàn toàn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, coi những gì đã có trong chủ nghĩa tư bản đều phải loại bỏ không dung nạp được trong chủ nghĩa xã hội. Chính từ nhận thức sai lầm trên, dẫn đến việc phủ nhận sự cần thiết phải kế thừa có chọn lọc những thành quả của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, trong nhiều thập kỷ vấn đề bỏ qua cái gì của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa đã không được chúng ta nhận thức rõ.

Bước vào thời kỳ đổi mới, dần dần chúng ta có nhận thức rõ ràng hơn vấn đề này. Nếu như tại Đại hội VI (1986) của Đảng khẳng định thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua “giai đoạn phát triển” tư bản chủ nghĩa, thì đến Đại hội VII (1991), Đảng ta không còn dùng cụm từ “giai đoạn phát triển” mà thay vào đó là bỏ qua “chế độ” tư bản chủ nghĩa. Nhận thức của Đảng về bỏ qua “chế độ tư bản chủ nghĩa” của thời kỳ quá độ có sự thay đổi, từ chỗ bỏ qua cả “giai đoạn phát triển” đến chỗ chỉ bỏ qua “chế độ chính trị” của tư bản chủ nghĩa. Đó là một bước tiến dài trong nhận thức của Đảng về việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đến Đại hội IX (2001), Đảng ta đã có bước phát triển mới về nhận thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là “bỏ quan việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”6. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là cơ sở dẫn đến sự thay đổi các quan hệ sản xuất, từ đó kéo theo sự thay đổi các quan hệ xã hội khác. Trong tiến trình phát triển, rõ ràng không thể bỏ qua được sự phát triển của lực lượng sản xuất, song quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa tuy tồn tại, còn được sử dụng nhưng không chiếm vị trí chủ đạo và đương nhiên theo đó không có sự xác lập kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa7. Cùng với việc không thể bỏ qua sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì cũng không thể bỏ qua những giá trị nhân văn, văn minh mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được. Do đó, nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không phải là bỏ qua toàn bộ các yếu tố cấu thành chủ nghĩa tư bản, mà phải sử dụng các yếu tố đó để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đây là nhận thức mới hết sức khoa học và đúng đắn, khi cho rằng trong thời kỳ quá độ sẽ tồn tại nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ hai nội dung mới quan trọng: Nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài: Quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Như vậy, ở Cương lĩnh bổ sung Đảng tiến thêm một bước trong việc thể hiện quan điểm về sự tất yếu và cần thiết nhận thức thời kỳ quá độ là thời kỳ lâu dài, trong khi Cương lĩnh năm 1991 chỉ nêu yêu cầu về sự cần thiết phải có bước đi, hình thức, biện pháp thích hợp.

Đánh giá chung 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”8. Đại hội tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Đồng thời, khẳng định trong tình hình mới Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”9. Như vậy, có thể nói những nhận thức lý luận của Đảng ta về thời kỳ quá độ trong Cương lĩnh bổ sung năm 2011 đã cơ bản hoàn thiện, tiếp tục được khẳng định tại Đại hội XIII và sẽ tiếp tục bổ sung hoàn thiện và hiện thực hóa trong thực tiễn. Đại hội XIII của Đảng (2021) đề ra mục tiêu tổng quát phát triển đất nước trong thời gian tới là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển, đất nước phồn vinh hạnh phúc, phát huy ý chí và  sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”10. Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Như vậy, trên cơ sở việc đề ra mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể, Đại hội XIII góp phần tạo cơ sở xác định việc phân kỳ thời kỳ quá độ một cách rõ ràng hơn. Căn cứ theo quan điểm của Đảng về mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể tại Đại hội XIII, có thể xác định giai đoạn tiếp theo của thời kỳ quá độ nước ta là một giai đoạn dài, được bắt đầu từ năm 1996 đến giữa thế kỷ XXI là vào năm 2045, đồng thời trong đó sẽ có những bước đi ngắn nhằm đáp ứng mục tiêu cụ thể trong khoảng thời gian từ 5 - 10 năm. Có thể xác định các bước đi ngắn đó gồm các giai đoạn cụ thể sau: Giai đoạn từ 1996 - 2025; Giai đoạn từ 2025 - 2030; Giai đoạn từ 2030 - 2045. Đồng thời, giai đoạn cuối của thời kỳ quá độ sẽ bắt đầu từ giữa thế kỷ XXI (khả năng vào năm 2045), giai đoạn cuối này có thể vẫn sẽ chia thành nhiều giai đoạn cụ thể, trong đó giai đoạn đầu tiên là khi Việt Nam từ một nước phát triển, có thu nhập cao phát triển thành nước có nền kinh tế tri thức, có thu nhập cao. Và cho đến khi Việt Nam đạt được tiêu chí của một nước phát triển bền vững, có thu nhập cao cũng là lúc Việt Nam bước vào giai đoạn kết thúc thời kỳ quá độ.

Sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là kết quả của quá trình đổi mới tư duy, tổng kết thực tiễn và sự vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam trong mỗi thời kỳ phát triển. Thời kỳ trước đổi mới do xuất phát từ tư duy giản đơn, nóng vội, đốt cháy giai đoạn, duy ý chí với mong muốn mau chống đi lên chủ nghĩa xã hội và trở thành một nước xã hội chủ nghĩa nên trong tư duy lý luận về thời kỳ quá độ của Đảng có nhiều vấn đề tồn tại và ảnh hưởng đến quan niệm phân kỳ thời kỳ quá độ. Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, tư duy lý luận về thời kỳ quá độ dần sáng tỏ, xóa bỏ được tư duy giản đơn, nóng vội, đốt cháy giai đoạn và xác định được bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa là bỏ qua cái gì và đồng thời cần thiết phải thừa kế có chọn lọc những thành tựu của hình thái - kinh tế xã hội đã được hình thành trên 500 năm của chủ nghĩa tư bản, để xây dựng nên hình thái - kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện đại hơn, ưu việt hơn.

Một trong những nội dung đặc biệt quan trọng có ý nghĩa quyết định trong quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI là trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, chúng ta phải tiếp tục làm rõ và khẳng định những đặc điểm của quá trình này, không chỉ ở hiện tại mà cả tương lai, dự báo triển vọng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh mới; từ đó, xác định phương hướng và các giải pháp đúng đắn, hợp lý để tiếp tục giải phóng tối đa mọi nguồn lực của đất nươc, tiếp tục đổi mới, phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t. 19, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 47.

2. V.I. Lênin: Về thời kỳ quá độ, Nxb ST, 1975, tr. 107.

3. Nguyễn Dương Hùng: Lý luận Mác -  Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số 12/2017, tr. 44 - 45.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t. 2, Nxb CTQG, H, 1998, tr. 2.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội DDại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb ST, H, 1976, tr. 47.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr. 84.

7. Phạm Tất Thắng, Nguyễn Linh Khiếu (Đồng chủ biên): Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG - ST, H, 2017, tr. 27.

8, 9, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG, H, 2021, t. 1, tr. 103; t. 2, tr. 322 - 323; t. 2, tr. 326.

                                                                        (Dẫn theo Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 03 (184)2022)

 


* Đại học Cần Thơ

** Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh