CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG THEO TINH THẦN
NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII
ThS Nguyễn Thị Ngọc Cảnh
Học viện Chính trị khu vực III
Công tác dân vận là một trong những công tác cơ bản của Đảng; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Trong những năm qua, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách và giành được nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Trong đó, công tác dân vận đã có những đóng góp quan trọng. Nghiên cứu Nghị quyết Đại hội XIII về công tác dân vận của Đảng trên một số điểm như sau:
1. Thực trạng công tác dân vận của Đảng trong thời gian qua
Công tác dân vận của Đảng là một nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta, góp phần hết sức to lớn làm nên những thành quả vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá: “Công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường”[1].
Có thể nhận thấy, trong thời kỳ đổi mới Đảng đã ban hành các nghị quyết chuyên đề về công tác dân vận. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã rút ra một trong những bài học sâu sắc nhất là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”; và “Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng”[2].
Tư tưởng chỉ đạo đặt nền tảng cơ sở của Đảng ta về công tác dân vận chính là Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW ngày 27-3-1990 Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) về“Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Nghị quyết đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng về công tác dân vận trong thời kỳ mới, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác dân vận “có ý nghĩa sống còn” đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW đã xác định: Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân. Kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Công tác vận động nhân dân phải năng động, sáng tạo về nội dung, đa dạng về phương thức hoạt động và tổ chức. Trách nhiệm dân vận là của Đảng, của Nhà nước và của toàn xã hội, không chỉ là trách nhiệm riêng của đoàn thể.Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03-6-2013 tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” đã khẳng định: “Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vậnlà nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân”[3]. Đại hội XII bổ sung thêm nhiệm vụ: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân”[4]. Trong đó, nhấn mạnh “đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”[5].
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong những năm gần đây có những đổi mới nhất định theo hướng bám sát thực tiễn, nguyện vọng của nhân dân để ban hành các nghị quyết, tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, Đảng ta cũng đã banh hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị (Quyết định 290-QĐ/TW, ngày 25-02-2010 của Bộ Chính trị khóa X; Quyết định số 23-QĐ/TW, ngày 30-7-2021 của Bộ Chính trị khóa XIII).
Công tác dân vận của hệ thống chính trị, nhất là dân vận chính quyền được đẩy mạnh và thực hiện khá đồng bộ ở các cấp, các ngành, tạo chuyển biến về nhận thức và nâng cao trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành đề án văn hóa công vụ (Quyết định số 1847/QĐ-TTg ngày 27-12-2018) quy định những chuẩn mực giao tiếp, ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức. Trong giao tiếp với người dân, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng, lắng nghe, tận tình giải thích và hướng dẫn cặn kẽ về quy trình xử lý công việc; luôn thực hiện phương châm “4 xin, 4 luôn” (xin chào, xin lỗi, xin cám ơn, xin phép; luôn mỉm cười, luôn nhẹ nhàng, luôn lắng nghe, luôn giúp đỡ). Nhiều cơ quan, đơn vị đã chỉ đạo và tổ chức rà soát, bổ sung hoặc ban hành mới quy chế làm việc của cơ quan, quy chế văn hóa công sở, quy chế ứng xử của cán bộ, công chức theo hướng: “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin” cùng với tác phong: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”. Chính phủ đã xây dựng, vận hành hệ thống tiếp nhận, trả lời phản ánh, kiến nghị của nhân dân và doanh nghiệp; nhiều địa phương đã công khai đường dây nóng để tiếp nhận, xử lý kiến nghị của nhân dânnhư Đà Nẵng, Quảng Bình; Quảng Nam; ĐăkLăk; Hà Nội... và các chương trình nhưdân hỏi cơ quan chức năng trả lời (Tỉnh Thừa Thiên - Huế);công dân hỏi Giám đốc Sở trả lời (Sở Tư pháp Bình Định); dân hỏi Giám đốc Sở trả lời (Hải Phòng), livestream “Dân hỏi - Thành phố trả lời” (thành phố Hồ Chí Minh).Phong trào thi đua “Dân vận khéo” được mở rộng về phạm vi và đối tượng, dần trở thành phương thức quan trọng, thường xuyên và có hiệu quả trong công tác vận động nhân dân. Trong hơn 10 năm triển khai phong trào thi đua “Dân vận khéo” (2009-2020), hệ thống chính trị đã phát hiện, giới thiệu hơn 900.000 mô hình, điển hình “Dân vận khéo” trong cả nước, có sức lan tỏa sâu rộng[6]tiêu biểu là các địa phương, như Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Kon Tum, Đắk Lắk, Cần Thơ, Hà Nội, Tuyên Quang, Hòa Bình, Hà Giang, Ninh Bình, Sơn La, Nghệ An...trên các lĩnh vực:kinh tế; văn hóa - xã hội; an ninh - quốc phòng. Đặc biệt, trên lĩnh vực xây dựng hệ thống chính trị, mô hình “Dân vận khéo” gắn với việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; vận động nhân dân tham gia ý kiến đối với các chính sách, pháp luật liên quan mật thiết đến cuộc sống người dân; mở rộng hình thức tiếp xúc cử tri (tại nơi cư trú, nơi làm việc, theo chuyên đề, lĩnh vực, theo đối tượng và cá nhân hoặc nhóm cử tri...), tạo sự đồng thuận, mở rộng dân chủ, phát huy tốt hơn trách nhiệm của cử tri trong việc tham gia góp ý xây dựng chính sách, pháp luật, phản ánh kiến nghị của cử tri.
Công tác tiếp dân và đối thoại với nhân dân của người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền từng bước đi vào nền nếp.Hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp và nhân dân theo các quyết định của Bộ Chính trị được đẩy mạnh và có chuyển biến tích cực. Từ năm 2014 - 2019, Mặt trận Tổ quốc các cấp tổ chức 86.872 cuộc phản biện xã hội. Trên cơ sở đó, nhiều chính sách, chương trình, dự án tác động đến đời sống nhân dân được góp ý, phản biện, kiến nghị sửa đổi, ban hành mới, phát huy được quyền làm chủ của nhân dân[7].Những năm qua, đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền địa phương với nhân dân theo Quy định số 11-QĐ/TW ngày 18-02-2019 của Bộ Chính trị (khóa XII) về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dânđã diễn ra ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước để lắng nghe, giải đáp những bức xúc, vướng mắc từ cơ sở. “Năm 2018, Thủ đô Hà Nội đã tổ chức 4 cuộc tiếp xúc, đối thoại ở cấp thành phố; 30/30 quận, huyện, thị xã tổ chức 217 hội nghị”[8]. Các cấp ủy đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức hơn 90.000 hội nghị đối thoại giữa cấp ủy, chính quyền với nhân dân. Thủ tướng Chính phủ đã có chủ trì nhiều cuộc đối thoại với doanh nghiệp, công nhân, nông dân để tiếp tục nhận các kiến nghị, chỉ đạo nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các chính sách có liên quan[9]. Thực tế cho thấy, việc đối thoại trực tiếp với nhân dân chính là cách “dân vận” linh hoạt, hiệu quả; không ít “điểm nóng” đã được giải quyết thấu tình, đạt lý được nhân dân đồng tình ủng hộ. Trên tinh thần Quy định số 11-QĐ/TW, hoạt động tiếp dân, đối thoại với dân không chỉ dừng ở trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, mà đã lan tỏa, nhân rộng trong đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, các địa phương, mang lại không khí dân chủ trong đời sống chính trị xã hội. Do đó, đặt ra cho các cấp ủy đảng phải lãnh đạo, tổ chức tốt nhiệm vụ đối thoại theo quy định, chuẩn bị đầy đủ các nội dung, nắm vững các chủ trương, luật pháp để đối thoại với dân theo phương châm công khai, minh bạch, dân chủ, tôn trọng, cùng chia sẻ, thấu tình đạt lý. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ “mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”[10]. Đại hội XIII bổ sung nội hàm của phương châm “kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[11].
Bên cạnh những kết quả đạt được, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng còn chỉ ra những khuyết điểm hạn chế như “Công tác dân vận có nơi, có lúc còn hạn chế; việc nắm bắt, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là những địa bàn phức tạp chưa kịp thời, sâu sát”[12]. “Một số cấp ủy, tổ chức đảng còn xem nhẹ công tác dân vận;… Công tác vận động, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và trách nhiệm của nhân dân còn một số bất cập[13]. Từ đó dẫn đến, việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
2. Về nhiệm vụ, giải pháp công tác dân vận của Đảng nhiệm kỳ khoá XIII
Công tác dân vận là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng nhằm vận động nhân dân thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”[14] thể hiện ở một số nội dung sau:
Một là, “Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận”[15]
Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, công tác dân vận luôn đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, góp phần tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức, trách nhiệm, tăng cường công tác phối hợp trong hệ thống chính trị, nhất là người đứng đầu, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên về công tác dân vận. Từ đó, góp phần tạo đồng thuận, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tạo sự đồng bộ, hiệu quả hơn trong công tác dân vận. Phong trào thi đua “Dân vận khéo” được đẩy mạnh gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã đem lại nhiều hiệu quả và có ý nghĩa thiết thực trên tất cả các lĩnh vực. Cấp ủy các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, tuyên truyền và thực hiện tốt các văn bản của Trung ương về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới. Qua đó để định hướng và phát huy sức mạnh của dư luận xã hội theo hướng tích cực; nhân dân thấy được sự đúng đắn trong các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, quy định của địa phương mà tự giác thực hiện. Không chỉ dừng lại ở nhận thức mà đòi hỏi hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên phải nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn, tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia tích cực vào các phong trào cách mạng, phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh
Hai là,“Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”[16]
“Trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân” là phương châm để thực hiện có hiệu quả công tác dân vận của Đảng. Người cán bộ của dân thì phải tìm hiểu xem người dân đang mong muốn điều gì; cuộc sống của dân ra sao. “Trọng dân” là gốc của phong cách mà cơ sở lý luận của nó xuất phát từ quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân”, “Nước lấy dân làm gốc”. Có trọng dân thì người cán bộ mới thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân. “Gần dân” là đòi hỏi khách quan của người cán bộ dân vận. Những người có phong cách gần dân sẽ tránh được căn bệnh quan liêu, hách dịch, mệnh lệnh. Muốn hiểu dân thì phải gần dân, không được quan liêu, phải hòa mình với người dân ở cơ sở, lắng nghe ý kiến của dân. Từ đó xây dựng tinh thần đoàn kết, sự đồng thuận để mọi người dân cùng chung sức, đồng lòng thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước với kết quả cao nhất.Có gần dân thì mới hiểu được cuộc sống, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân và do đó mới tham mưu đúng, tham mưu trúng cho cấp ủy đảng, chính quyền những chủ trương, chính sách phù hợp với lòng dân. Muốn “học dân” thì người cán bộ phải hết sức khiêm tốn, cầu thị, biết lắng nghe, không được tự cho mình cái gì cũng biết. Chính nhân dân là những người sáng suốt, có rất nhiều kinh nghiệm trong đối nhân xử thế, sáng tạo trong cuộc sống, làm nên lịch sử. Cán bộ dân vận muốn thật sự đến với dân, muốn trở thành người đầy tớ của dân thì phải có trách nhiệm với dân, nghĩa là mọi việc đều vì hạnh phúc của nhân dân. Đồng thời, cán bộ dân vận phải tuyên truyền, giải thích cho dân hiểu những chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước để dân hiểu và thực hiện. Có gần dân thì mới được dân tin, học được dân và nghe được dân nói thật.
Ba là,“Chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác dân vận”[17]
Để tăng cường công tác dân vận nhất thiết phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận của Đảng, có cơ chế, chính sách thu hút người có năng lực, có uy tín, có kinh nghiệm làm công tác dân vận; chú trọng luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, nhất là cán bộ trẻ tuổi, có năng lực về làm công tác dân vận.
Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận phải được đào tạo cơ bản về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận. Từ đó, cán bộ làm dân vận nắm vững và hiểu rõ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tạo được bản lĩnh vững vàng và linh hoạt trong mọi hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện nhiệm vụ bao trùm của công tác dân vận là tập hợp, động viên mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết, củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đồng thời, đội ngũ cán bộ phải tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, có lối sống đúng đắn, hòa nhập với cộng đồng, giữ mối liên hệ chặt chẽ với nơi cư trú; không ngừng cố gắng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tích lũy kinh nghiệm trong công việc; có trách nhiệm, tâm huyết với công tác dân vận; tận tụy phục vụ nhân dân; là những cán bộ, đảng viên gương mẫu trong công việc và cuộc sống để nhân dân học tập theo. Cùng với việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, cũng phải chú trọng xây dựng lực lượng nòng cốt, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo làm công tác dân vận ở cơ sở. Họ chính là những cánh tay nối dài giữa Đảng, chính quyền và nhân dân.
Bốn là,nâng cao chất lượng giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân[18].
Giám sát, phản biện xã hội là một hoạt động cơ bản của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo vệ thể chế chính trị, góp phần vào thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.Giám sát góp phần thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém để kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; phát hiện những nhân tố mới, những mặt tích cực để kịp thời phổ biến nhân rộng, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh, làm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Phản biện xã hội nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể… Từ đó, kiến nghị bổ sung, sửa đổi những nội dung thiết thực, góp phần đảm bảo tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cuộc sống xã hội và đảm bảo tính hiệu quả; đồng thời góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.Để nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các cấp ủy, tổ chức đảng một mặt phải tôn trọng tính độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, đồng thời tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy tính chủ động hơn trong hoạt động, để gần dân, sát dân hơn.Lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, làm tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở, phù hợp với trình độ dân trí và đặc điểm, tình hình cụ thể của từng giai tầng xã hội, trong từng thời kỳ.
Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội phát huy vai trò làm tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền về nội dung, hình thức, phương pháp công tác dân vận và làm nòng cốt trong việc tổ chức các phong trào thi đua, trong tuyên truyền, vận động thu hút hội viên, nắm bắt dư luận xã hội, phát huy dân chủ, năng lực trí tuệ, ý thức trách nhiệm của công dân trong thực hiện giám sát xây dựng chính quyền, xây dựng Đảng. Đồng thời tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hộivà nhân dân tham gia xây dựng các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án ngay từ khi đang còn dự thảo; những văn bản liên quan đến quyền lợi của nhân dân như: Giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư... nhất thiết phải tham khảo ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hộitrước khi ban hành; chú trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện.
Năm là, “Tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyếtcủa Đảng về công tác dân vận”[19]
Tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyếtcủa Đảng về công tác dân vận vừa góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của cấp ủy, vừa làm cho sự lãnh đạo gắn với thực tiễn hơn; đảm bảo tính thống nhất giữa nghị quyết và sự chấp hành, giữa lời nói và việc làm; khắc phục có hiệu quả bệnh quan liêu, chủ quan, duy ý chí, thiếu trách nhiệm ở một số đảng viên. Việc kiểm tra, giám sát được tiến hành có nền nếp, đúng quy trình sẽ góp phần ngăn ngừa các biểu hiện mất đoàn kết trong quá trình tổ chức thực hiện, đảm bảo cho nguyên tắc tổ chức hoạt động của Đảng được thực hiện nghiêm túc; khắc phục tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” trong công tác dân vận. Mặt khác, qua kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm giúp cấp ủy nắm rõ được tình hình, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc trong nhân dân; chấn chỉnh, uốn nắn kịp thời những sai sót, lệch lạc trong công tác này. Chính sự thường xuyên kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm làm cho thờ.
Từ tổng kết thực tiễn trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta có nhiều nghị quyết, quyết định, chỉ thị lãnh đạo công tác dân vận của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng là một trong những nội dung quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng nói chung, đặc biệt là các chủ trương, nghị quyết và các văn bản của Đảng về công tác dân vận.Để lãnh đạo tốt công tác dân vận, các cấp ủy phải xem trọng công tác kiểm tra, giám sát những chỉ thị, quyết định, chương trình công tác dân vận. Chú trọng xây dựng được chương trình, kế hoạch cụ thể của công tác kiểm tra, giám sát nghị quyết, các văn bản, quyết định liên quan đến công tác dân vận. Đồng thời từ kiểm tra, phát hiện những việc chưa làm, làm chưa tốt để nhắc nhở các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên gương mẫu đi đầu, thực hiện nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, quyết định của chính quyền, công việc đoàn thể liên quan đến đời sống nhân dân.
Công tác sơ kết, tổng kết công tác dân vận cần được các cấp ủy đảng chỉ đạo kịp thời sau mỗi chương trình, kế hoạch, phong trào, hằng quý, hằng năm. Phải kịp thời biểu dương những điển hình mô hình hay, người làm tốt, khuyến khích, tạo sức lan tỏa tốt trong cộng đồng dân cư, qua đó kịp thời động viên, khích lệ các tổ chức, cá nhân tích cực vận động nhân dân tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, đoàn thể để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội, 2021, tập II, tr 201-202
[2]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.Sự thật, H.1987, tr.29
[3]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2013, tr.36
[4]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc toàn lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.210.
[5]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc toàn lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.210.
[6] Tạp chí Dân vận, số 1&2/2021, tr.29
[7] Tạp chí Dân vận, số 1&2/2021, tr.27
[8] Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8/2019, tr.15
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội, 2021, tập II, tr 204
[10]Sđd, tập I, tr 28
[11]Sđd, tập I, tr 27
[12]Sđd, tập I, tr 92
[13]Sđd, tập II, tr 205
[14] Sđd, tập II, tr248
[15]Sđd, tập II, tr 248
[16]Sđd, tập II, tr248
[17]Sđd, tập II, tr249
[18] Sđd, tập II, tr249
[19] Sđd, tập II, tr249
(Dẫn theo Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 2 (183)/2022)