CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

TS. Phạm Văn Giang & ThS. Cao Thị Hiệu

(Học viện Chính trị khu vực III)

 

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một vấn đề rộng lớn , luôn được Đảng ta nhận thức, bổ sung phù hợp với từng giai đoạn. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục có những nhận thức mới được bổ sung, cụ thể hóa nhằm làm rõ hơn mục tiêu, phương hướng và các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

1- Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Đề ra phương hướng, nhiệm vụ đi lên chủ nghĩa xã hội luôn là một nội dung quan trọng hàng đầu được Đảng ta xác định trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Trước đổi mới, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chịu ảnh hưởng bởi mô hình Xô viết, nên chưa phản ánh được nét đặc thù, đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Hệ quả, cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, kinh tế - xã hội rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Trong bối cảnh đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta đề ra đường lối đổi mới đất nước, để nhận thức đúng, đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong đó, đột phá lớn nhất là đổi mới tư duy, mà trước hết là tư duy về kinh tế, thừa nhận sự tồn tại của kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bước đầu cho thấy hiệu quả trong thực tế.

Trong khi đó, quá trình cải tổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã phạm phải nhiều sai lầm, khuyết điểm làm cho nguy cơ tan rã, đổ vỡ ngày càng hiện rõ. Trong bối cảnh hết sức phức tạp đó, tại Đại hội lần thứ VII (1991), Đảng ta thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lần đầu tiên phác thảo ra mô hình (6 đặc trưng) và con đường (7 phương hướng) đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng, khẳng định Việt Nam tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

Tổng kết 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, tại Đại hội lần thứ XI (2011) Đảng ta có những nhận thức, bổ sung mới về mô hình, mục tiêu, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong đó, xác định “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”[1]. Để thực hiện thành công mục tiêu đó, cần thực hiện tốt các phương hướng cơ bản: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng giải quyết các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ[2].

 Như vậy, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng ta xác định một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại. Quan điểm này tiếp tục được cụ thể hóa, bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội, Hội nghị về sau, nhất là tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

2- Bổ sung nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đại hội XIII

Đại hội XIII của Đảng, trên cơ sở tổng kết 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã cụ thể hóa, bổ sung nhận thức mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Thứ nhất, cụ thể hóa mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội.

Phải khẳng định rằng, đây là một vấn đề khó khăn, phức tạp. Sau khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta từng nhận thức chỉ cần một vài ba kế hoạch sẽ kết thúc thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy đây không phải là vấn đề đơn giản. Những mục tiêu, kế hoạch chúng ta đề ra về cơ bản không đạt, đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, buộc Đảng ta phải nhận thức lại và đề ra đường lối đổi mới.

Sau 10 thực hiện đường lối đổi mới, đến Đại hội VIII (1996), Đảng ta tổng kết và nhận định: đất nước đã ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội, cho phép kết thúc chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020 xây dựng nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu này tiếp tục được khẳng định qua các kỳ Đại hội IX, X, XI. Đến Đại hội XII (2016), tổng kết 30 năm đổi mới cho thấy mục tiêu đến năm 2020 xây dựng nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được; và Đảng ta xác định lại là: phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. 

Cụ thể hóa mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ xác định trong Cương lĩnh năm 2011 và theo tinh thần quan điểm Đại hội XII, tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với lộ trình cho các mục tiêu cụ thể: đến năm 2025, kỷ niệm 100 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp (GDP bình quân đầu người 4.700 đến 5.000 USD); đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao (GDP bình quân đầu người 7.500 USD); đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao[3] (GDP bình quân đầu người khoảng 18.000 USD)[4].

Như vậy, so với quan điểm trong Cương lĩnh năm 2011 và quan điểm của Đại hội XII, thì quan điểm của Đại hội XIII cụ thể hóa thành các mục tiêu cụ thể, nhằm hướng tới mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI xây dựng nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc xác định mục tiêu của Đại hội XIII là theo cách tiếp cận mới về trình độ phát triển, trình độ công nghiệp và thu nhập bình quân đầu người. Đây là tổng hợp cách tiếp cận của Đảng ta trong 35 năm đổi mới và theo cách đánh giá, phân loại các nước theo thông lệ quốc tế, được các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Thương mại Thế giới, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế và hầu hết các nước trên thế giới sử dụng[5]. Vì vậy, những mục tiêu cụ thể được xác định lần này có đầy đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước.

 Thứ hai, bổ sung nhận thức về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Như đã đề cập, từ Đại hội VIII, Đảng ta xác định bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm này tiếp tục được các kỳ Đại hội IX, X, XI bổ sung phát triển. Đại hội XIII tiếp tục khẳng định và có những bổ sung mới cụ thể hơn. Đó là tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Điểm mới lần này là công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, tận dụng tốt cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để phát triển bứt phá trong một số ngành và lĩnh vực. Trong đó, chú trọng “Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng, phát triển, làm chủ công nghệ hiện đại; phát triển một số sản phẩm chủ lực có thương hiệu mạnh, có uy tín trong khu vực và thế giới. Nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và phát triển kinh tế số”[6]. Đồng thời, ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường, nhằm đảm bảo phát triển nhanh và bền vững.

Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nhận thức về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được bắt đầu từ khi đất nước bước vào đổi mới và tiếp tục được bổ sung qua các kỳ Đại hội, Hội nghị của Đảng. Đến nay, cơ bản đã có sự thống nhất chung trong nhận thức. Vì vậy, Đại hội XIII yêu cầu thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”[7]. Theo đó, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường là một trong ba khâu đột phát chiến lược được Đảng ta xác định từ Đại hội XI. Điểm mới lần này là được xác định nội hàm rộng và cụ thể hơn, đó là “hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[8].

Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Đại hội XIII cùng với việc tiếp tục một cách nhất quán các phương hướng về phát triển văn hóa, con người, quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong các văn kiện Đại hội XI, XII của Đảng, thì cũng có một số bổ sung mới. Đó là “xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”[9]. Trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào tiến trình phát triển của thế giới, thì việc gắn bó chặt chẽ giữa hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người với hệ giá trị gia đình Việt Nam là một nhận thức mới, trong đó đặt hệ giá trị gia đình vào vị thế vốn có của nó, với tư cách là tế bào của xã hội, là hạt nhân nuôi dưỡng, lưu giữ và phát huy các giá trị quốc gia, giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Đối với các loại hoạt động sáng tạo văn hóa, nghệ thuật “bảo đảm tự do, dân chủ trong sáng tạo”, “quan tâm phát triển văn hóa, văn nghệ của các dân tộc thiểu số”[10]. Cụ thể hóa hơn về cách tiếp cận công nghiệp văn hóa, là “khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”[11]. Đối với các vấn đề xã hội, Đại hội XIII nhấn mạnh: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người”[12]. Điều đó nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của con người và xã hội, thể hiện bản chất của chế độ ta là lấy con người làm mục tiêu phát triển.

Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Quốc phòng, an ninh là lĩnh vực vô cùng quan trọng và là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Qua mỗi kỳ Đại hội, phương hướng xây dựng quốc phòng, an ninh tiếp tục được bổ sung những nội dung mới phù hợp với từng giai đoạn. Đại hội XIII việc xác định phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh có mặt đậm nét hơn và có những điểm mới. Đó là “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”[13]. Đồng thời, xác định rõ hơn nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, an ninh; triển khai thực hiện các chiến lược về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới. 

Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Lần đầu tiên trong Cương lĩnh năm 2011 xác định “hội nhập quốc tế” thay cho “hội nhập kinh tế quốc tế”, nhằm mở rộng nội hàm, không chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế, mà hội nhập trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại. Trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là trọng tâm, hội nhập trên các lĩnh vực khác nhằm phục vụ cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày một hiệu quả hơn. Đại hội XIII, tiếp tục khẳng định quan điểm đó, đồng thời làm rõ hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế phải luôn xác định lợi ích quốc gia dân tộc luôn là là mục tiêu tối thượng, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Hội nhập quốc tế phải chủ động, tích cực và “giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Gắn kết chặt chẽ quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng của toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước”[14].

Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.

Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”[15]. Đây là sự tổng kết, có tính khái quát cao về dân chủ, khẳng định bản chất của chế độ ta là dân chủ, là mục tiêu, động lực của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đại hội XIII tiếp tục cụ thể hóa và bổ sung một số nội dung mới, đó là: (i) bổ sung nội dung, phương châm thực hiện dân chủ là “dân giám sát, dân thụ hưởng” thành “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. (ii) xác định rõ hơn mối quan hệ và vai trò giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. (iii) khẳng định “đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[16].

Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Lần đầu tiên Đảng ta sử dụng khái niệm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong văn kiện là tại Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994). Về sau tiếp tục được Đảng ta bổ sung, phát triển và đưa vào đặc trưng, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[17].

Tại Đại hội XIII đã xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”[18]. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định. Đẩy nhanh tiến độ ban hành các luật trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013.

Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng, đây là nhiệm vụ then chốt quyết định đến thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua mỗi kỳ Đại hội, Đảng ta luôn có sự đánh giá một cách toàn diện những ưu điểm, hạn chế, bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng vừa có tính kế thừa vừa có những điểm mới phù hợp với từng giai đoạn. Tại Đại hội XIII nhấn mạnh: “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”[19]. Điểm mới so với trước đây là bổ sung “xây dựng hệ thống chính trị” cùng với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và không chỉ đề cập đến xây dựng Đảng, mà cả chỉnh đốn Đảng. Đồng thời, bổ sung những nhận thức mới trong nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức[20].

Thứ ba, bổ sung nhận thức về các mối quan hệ lớn cần giải quyết.

Lần đầu tiên các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội được Đảng ta tổng kết, hệ thống hóa trong Cương lĩnh năm 2011. Đó là 8 mối quan hệ: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đến Đại hội XII, Đảng ta có sự điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”, nhằm làm rõ hơn trong chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại nền kinh tế thị trường; và bổ sung thêm mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”. Đến Hội nghị Trung ương 5, khóa XII, bổ sung, phát triển thành quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”.

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục có những nhận thức, bổ sung mới các mối quan hệ lớn. Đó là điều chỉnh, bổ sung mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” thành “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” thành “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Đặc biệt, bổ sung thêm mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”[21].

Như vậy, Đảng ta đã có những điều chỉnh, bổ sung mới từng mối quan hệ một cách chặt chẽ, đầy đủ hơn, thành 10 mối quan hệ lớn cần giải quyết. Đây là sự phản ánh quy luật khách quan, mang tính biện chứng của những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng, làm cho “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”[22].

3- Một số yêu cầu đối với thực hiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tinh thần Đại hội XIII

Để đi lên chủ nghĩa xã hội theo tinh thần Đại hội XIII, cần thực hiện một số yêu cầu sau:

Một là, thống nhất nhận thức cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng.

Để kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, trước hết là phải tạo sự thống nhất trong nhận thức cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về quan điểm, đường lối của Đảng, nhất là về các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ cần thực hiện trong giai đoạn hiện nay. 

Để thực hiện được yêu cầu này, cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho các chủ thể nhận thức rõ ý nghĩa, trách nhiệm của bản thân trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ. Cần chú ý tùy theo đối tượng để có biện pháp thông tin, tuyên truyền phù hợp. Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, thường xuyên quán triệt, phổ biến đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng về triển khai thực hiện quan điểm Đại hội XIII gắn với trách nhiệm, vị trí công tác. Đối với quần chúng nhân dân phải có nhiều hình thức thông tin, tuyên truyền phù hợp, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện, sát với điều kiện, trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân.

Hai là, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể hóa các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển đất nước của Đại hội XIII.

Quan điểm, đường lối của Đảng chỉ thực sự có ý nghĩa khi được triển khai vào cuộc sống. Mức độ hiệu quả trên thực tế là thước đo cho vai trò lãnh đạo của Đảng và sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trên cơ sở thống nhất nhận thức, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương, cơ sở, phải xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, gắn với điều kiện, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, địa phương, đơn vị. Triển khai đầy đủ, toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể; bảo đảm quốc phòng, an ninh; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ. Chú trọng thực hiện có hiệu quả 6 nhiệm vụ trọng tâm, 3 đột phá chiến lược mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định. Trong đó, phải đề ra được phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, khoa học, có tính khả thi cho từng mục tiêu, chỉ tiêu, nội dung thực hiện.

Ba là, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ các nguồn lực phát triển đất nước.

Quán triệt tinh thần Đại hội XIII về khơi dậy và phát huy mạnh mẽ các nguồn lực vật chất và tinh thần phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Khơi dậy và phát huy ý chí tự lực, tự cường của con người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, giá trị văn hóa, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.

Phát huy mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường. Khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Theo đó, cần phải hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; làm cho kinh tế - xã hội phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước. 

Bốn là, đấu tranh ngăn chặn, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc quan điểm, đường lối của Đảng.

Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã, đang và sẽ tìm và làm mọi cách để chống phá, xuyên tạc quan điểm, đường lối phát triển đất nước của Đại hội XIII. Vì vậy, trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ phải luôn quán triệt tinh thần kết hợp giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả. Một mặt, phải tổ chức thực hiện hiệu quả quan điểm, đường lối của Đảng, không tạo khoảng trống để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ âm mưu, bản chất, tác hại của các quan điểm sai trái, thù địch để chủ động phòng ngừa, đấu tranh.

 Năm là, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện mới của đất nước.

Đây là yêu cầu, nhiệm vụ rất quan trọng, xuyên suốt và nhất quán trong quá trình đổi mới đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào cũng phải kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với cách mạng Việt Nam và với Đảng ta, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống nhất chặt chẽ không thể tách rời. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Mọi biểu hiện xét lại hoặc giáo điều trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều là những lệch lạc, sai lầm cần phải phòng tránh và phê phán. 

 


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.71.

[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.72 - 73.

[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.112, 218, t.II, tr.95.

[4].Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh : Các chuyên đề lớp Bồi dưỡng kiến thức mới cho cán bộ quy hoạch cấp chiến lược khóa XIII của Đảng, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2021, q.I, tr.33.

[5].Tháng 7/2020, Ngân hàng Thế giới công bố tiêu chí phân loại các nước theo thu nhập bình quân đầu người: nước có thu nhập thấp là nước có thu nhập bình quân đầu người dưới 1.036 USD/năm (tiêu chí công bố năm 2019 là 1.026 USD/năm); nước có thu nhập trung bình thấp là nước có thu nhập bình quân đầu người từ 1.036 đến dưới 4.045 USD/năm (tiêu chí công bố năm 2019 là từ 1.026 - 3.395 USD/năm); nước có thu nhập trung bình cao là nước có thu nhập bình quân đầu người từ 4.045 đến dưới 12.535 USD/năm (tiêu chí công bố năm 2019 là 8.395 - 12.375 USD/năm), nước có thu nhập cao là nước có thu nhập bình quân đầu người trên 12.535 USD/năm.

[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.I, tr.123.

[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.I, tr.128.

[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.I, tr.203.

[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.I, tr.143.

[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.I, tr.145.

[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.I, tr.145.

[12]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.I, tr.147 - 148.

[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.I, tr.157 - 158.

[14]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.I, tr.164.

[15]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.84.

[16]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.I, tr.172 - 174.

[17]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.85.

[18]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.I, tr.175.

[19]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.I, tr.57.

[20].Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.I, tr.180 - 199.

[21]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.I, tr.119.

[22]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.103.