ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG VỀ BẢO ĐẢM LỢI ÍCH QUỐC GIA - DÂN TỘC CHÂN CHÍNH THEO MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
GS.TS Trần Văn Phòng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ chí Minh
Tóm tắt: Bài viết phân tích tư tưởng Đại hội XIII về bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh mới. Đểthực hiện mục tiêu này, cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau: Quán triệt nguyên tắcsự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng nhất; xác định rõ tư tưởng chỉ đạo quá trình đổi mới tiếp theo; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, giải quyết tốt quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế;dựa vào nhân dân để bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính.
Từ khóa: Bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc; mục tiêu độc lập, CNXH.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chủ trương bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tinh thần này vừa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hơn 90 năm lãnh đạo của Đảng vừa là nguyên tắc quan trọng trọng sự nghiệp đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục tinh thần các kỳ đại hội trước, Đại hội XIII xác định một trong những tư tưởng chỉ đạo là “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[1]. Đó chính là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc chân chính, đúng đắn theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Bối cảnhquốc tế hiện nay được Đại hội XIII của Đảng nhận định, dự báo là “tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt. Do tác động của đại dịch Covid-19, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang đến cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Các nước điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên biển Đông còn diễn biến phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác, nhất là an ninh mạng, ngày càng tác động mạnh mẽ, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta”[2]. Trong bối cảnh ấy thì việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lại càng quan trọng và cấp thiết. Để thực hiện mục tiêu này, Đại hội XIII xác định phải nhận thức và thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu sau:
Một là, quán triệt nguyên tắcsự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta đều rõ, cả lý luận, cả thực tiễn hơn 90 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đã chứng tỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bởi lẽ, “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc"[3]. Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam không có mục đích nào khác ngoài mục đích phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc, không có lợi ích nào ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân và của dân tộc. Bản thân sự ra đời của Đảng cũng là nhằm tranh đấu, bảo đảm lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc. Do vậy, sự lãnh đạo của là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy mà trước yêu cầu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu trong bối cảnh mới hiện nay, Đảng ta lại đòi hỏi “toàn Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình, chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống, nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt đdược, đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững”[4]. Cũng chính vì vậy mà Đảng rất quan tâm tới xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh;xác định phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những sai lầm, khuyết điểm của mình; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tất cả những công việc này đều nhằm bảo đảm lợi ích cho nhân dân, cho giai cấp và cho dân tộc; bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là,xác định rõ tư tưởng chỉ đạo quá trình đổi mới tiếp theo.
Trong Báo cáo của BCHTW Đảng khóa XII về các Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng nêu rõ “Tư tưởrng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[5].Đây là những nguyên tắc vô cùng quan trọng để tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới nói chung, trong bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nói riêng. Liên quan trực tiếp đến bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc, Đại hội XIII xác định rõ nguyên tắc “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia -dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”[6].Như vậy là ngay những nguyên tắc cơ bản, xuất phát này đã thể hiện được sự gắn kết giữa bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc chân chính vớikiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng. Nếu chúng ta không kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì vận dụng, phát triển sáng tạo dễ mất phương hướng, thậm chí rơi vào cơ hội, xét lại. Nhưng nếu kiên định mà không sáng tạo thì dễ rơi vào bảo thủ, trì trệ, lạc hậu. Đồng thời phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nếu xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì không thể bảo đảm được độc lập dân tộc trọn vẹn, bền vững. Nếu không kiên định đường lối đổi mới của Đảng, chúng ta không bảo đảm được những thành quả của cách mạng mà các thế hệ đã giành được, không tạo được cơ sở vật chất, kỹ thuậtvững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu không kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, chúng ta khó mà giữ được vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Điều này còn xuất phát từ thực tế, sự lãnh đạo của Đảng ta là nhân tố quyết định mọi thành công của cách mạng Việt Nam. Do vậy, bốn kiên định này quan hệ biện chứng, đòi hỏi, bổ sung lẫn nhau, cùng nhau tạo ra nền tảng, cơ sở để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ba là,cùng với đường lối phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường,v.v.. Đại hội XIII đề ra đường lối tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đúng đắn.
Có thể nói đường lối tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một chủ trương trực tiếp bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện được đường lối này, Đại hội XIII đòi hỏi phải thực hiện tốt các biện pháp sau:
Thứ nhất, “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia – dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[7].
Thứ hai, tiếp tục tinh thần các đại hội trước, Đại hội XIII vẫn xác định củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt[8].
Thứ ba, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các lực lượng thù địch, chú trọng an ninh, an toàn cho người dân. Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là những nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng chống thiên tai, dịch bệnh[9]. Thực tiễn cứu hộ, cứu nạn, phòng chống dịch covid-19 cho thấy lực lượng vũ trang của chúng ta đã kịp thời ứng phó và thực hiện xuất sắc nhiệm vụ mà Tổ quốc, nhân dân và Đảng giao phó.
Thứ tư,có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”[10]. Nghĩa là Đại hội chủ trương hòa bình là chủ yếu, cơ bản nhưng liên quan tới độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc thì chúng ta kiên quyết, kiên trì. Kiên quyết là dù khó khăn đến đâu cũng không nản lòng, không thay đổi, kiên trì là luôn luôn giữ vững mục tiêu, là cố gắng mãi. Nghĩa là những gì liên quan tới độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển củar Tổ quốc thì chúng ta không nản lòng, luôn giữ vững mục tiêu, kiên trì từ thế hệ này sang thế hệ khác, quyết tâm bảo vệ bằng được. Đó chính là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thứ năm, tăng cường tiềm lực, quốc phòng, an ninh, xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. Xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốsc phòng toàn dâan và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp tốt giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và ngược lại. Giải quyết hài hòa giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa[11].
Thứ sáu, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại những vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội, Công an tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Đảng, Nhà nước, chế độ và nhân dân, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội[12].
Thứ bẩy, triển khai thực hiện đồng bộ Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược an ninh mạng quốc gia và các chiến lược quốc phòng, an ninh chuyên ngành khác. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh[13].
Thứ tám, “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”[14].
Thực hiện tốt tám biện pháp trên, chúng ta sẽ tổ chức thực hiện được đường lối tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đúng đắn. Trên cơ sở đó, có điều kiện để bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại.
Tiếp tục tinh thần các đại hội trước, Đại hội XIII khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Trên tinh thần này bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc của Hiến chương liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện. Tiếp tục chủ trương “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đdồng quốc tế”[15]. Để thực hiện được mục tiêu này Đại hội XIII đề ra một loại biện pháp cụ thể:
Thứ nhất, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó “vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[16]. Nghĩa là hoạt động đối ngoại phải phục vụ cho mục tiêu bảo vệ lợi ích quốc – dân tộc, bảo vệ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là quán điểm nhất quán của Đảng ta từ khi ra đời đến nay.
Thứ hai, phát huy vai trò tiền phong của đối ngoại trong việc tạo lập, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước[17].
Thứ ba, xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đai với ba trụ cột là đối ngoại Đaảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân[18]. Nghĩa là cả hệ thống chính trị, toàn dân làm công tác đối ngoại phục vụ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, đẩy mạnh đdối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương, chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại cásc cơ chế đa phương như ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Kông và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế[19]; tạo thế đan xem lợi ích và tăng độ tin cậy. “Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới bảo vệ Tổ quốc”[20]. Đây là biện pháp ngoại giao thiết thực để bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, tham gia các cơ chế đa phương chúng ta mới có tiếng nói và có quyền chia sẻ, tham vấn ý kiến, thể hiện quan điểm, lập trường, thái độ để các nước khác hiểu, ủnrg hộ. Khi tham gia tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới chúng ta sẽ có những lợi ích đan xen với các nước khác và trong mọi tình husống có thể tìm được tiếng nói chung. Thông qua đó, chúng ta có thêm cơ hội bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc chân chính.
Thứ năm, “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù dịch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”[21]. Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đdề trên biển, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Củng cố đường biên giới hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng[22]. Phương châm của chúng ta là dựa trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và Luật pháp quốc tế để bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện có hiệu quả năm biện pháp trên chúng ta sẽ triển khai được đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại.Trên cơ sở đó, có điều kiện để bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Năm là,chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, giải quyết tốt quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế.
Để thực hiện tốt giải pháp này vì mục tiêu bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đại hội XIII đề ra một loạt các biện pháp cụ thể:
Thứ nhất, thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo dđảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Gắn kết chặt chẽ giữa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng toàn xã hội; đổi mới hoàn thiện thể chế trong nước, nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước[23]. Bởi lẽ, muốn phát huy được lợi thế của nhân tố quốc tế, thời đại, thì nội lực, cơ chế bên trong, thể chế trong nước, năng lực cạnh tranh, khả năng thích ứng của đất nước là vô cùng quan trọng. Thông qua đó, chúng ta tăng cường năng lực bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính.
Thứ hai, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hiệu quả hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, du lịch và các lĩnh vực khác.Tích cực triển khai các cam kết khu vực và quốc tế , lồng ghép với các chính sách phát triển kinh tế-xã hội[24].
Thứ ba, chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết. Mở rộng quan hệ và đẩy mạnh hợp tác với các lực lượng chính trị, xã hội và nhân dân các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác, phát triển và tiến bộ[25]. Đây là chủ trương, biện pháp hoàn toàn đúng đắn. Bởi lẽ, chúng ta có tham gia xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế thì chúng ta mới có tiếng nói để bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc trong các thể chế đa phương này. Việc thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết cũng là một biện pháp quan trọng bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính. Đồng thời, việc mở rộng quan hệ và đẩy mạnh hợp tác với các lực lượng chính trị, xã hội và nhân dân các nước cũng là biện pháp quan trong bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính. Chính vì vậy, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế cũng là một biện pháp bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, không để bị động, bất ngờ về đối ngoại và hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại, bảo hộ công dân, triển khai toàn diện, mạnh mẽ hơn công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ alfm công tác đối ngọai và hội nhập quốc tế; tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoài và hội nhập quốc tế[26].
Thực hiện tốt bốn biện pháp trên sẽ thực hiện có hiệu quả giải pháp chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, giải quyết tốt quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó, bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Sáu là, dựa vào nhân dân để bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm quý báu “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm "dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; ”[27]. Do vậy, trong bất kỳ công việc nào của đất nước, nếu không dựa vào nhân dân thì chúng ta không thể hoàn thành được mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Trong việc bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộcchân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì lại càng phải dựa vào nhân dân. Như trên chúng ta đã rõ, trong sự nghiệp bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc cũng như sự nghiệp đối ngoại để tham gia bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính, Đảng ta luôn dựa vào nhân dân. Trong quốc phòng, an ninh, không phải ngẫu nhiên mà chúng ta chủ trương xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. Trong chủ động hội nhập quốc tế, công tác đối ngoại chúng ta chủ trương phát huy vai trò đối ngoại nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà trong Cương lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển), Đảng Cộng sản Việt Nam lại rút ra bài học kinh nghiệm “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng. Xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh cuủa đất nước, của chếđộ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”[28]. Đối với công tác bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng vậy, nếu xa rời nhân dân, không dựa vào nhân dân, không phát huy vai trò của nhân dân, chúng ta sẽ khó khăn trong bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc.
Thực hiện đồng bộ sáu giải pháp trên cùng các biện pháp cụ thể trong từng giải pháp mà Đại hội XIII của Đảng ta đã đề ra thì chúng ta nhất định sẽ bảo đảm vững chắc lợi ích quốc gia-dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh mới.
(Dẫn theo Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 1(182)/2022)
[1]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.33.
[2]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, tập 1, NxbCTQGST, H.2021, tr.30-31.
[3] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XI, NxbCTQGST,H..2011, tr.88.
[4]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, tập 1, NxbCTQGST, H.2021, tr.109.
[5]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.33.
[6]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.161-162.
[7]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.155-156.
[8] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.156.
[9] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.156.
[10]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.157.
[11] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.157.
[12] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.158.
[13] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.160.
[14]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.160-161.
[15]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.162.
[16]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.162.
[17] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.162.
[18] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.162.
[19] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.162.
[20]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.163.
[21]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.163.
[22] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.163.
[23] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.164.
[24] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.164.
[25] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.164.
[26] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, NxbCTQG.ST, H. 2021; tập I, tr.165.
[27] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NxbCTQGST, H.2021, tr.96.
[28] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XI, NxbCTQGST,H..2011, tr.65.