“KIÊN ĐỊNH” – TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO QUAN TRỌNG TRONG NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG

 

TS Lê Xuân Hoa

Học viện Chính trị khu vực III

Trong năm quan điểm chỉ đạo được trình bày trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng1 thì quan điểm chỉ đạo được đưa lên hàng đầu đó là: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”2.

1. “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”

Chủ nghĩa Mác - Lênin - chủ nghĩa xã hội khoa học theo nghĩa rộng là học thuyết khoa học, cách mạng do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển trong quá trình tổng kết thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, kế thừa những thành tựu tư tưởng, tri thức tinh hoa của nhân loại. Đồng thời nó đóng vai trò là thế giới quan, phương  pháp luận duy vật khoa học của nhận thức và thực tiễn cách mạng. Chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học trong cuộc đấu tranh chống mọi chế độ áp bức, bóc lột, bất công, tiến tới xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, trong đời sống chính trị - xã hội của nhân loại, nhưng nó vẫn tỏa sáng, thể hiện sức sống phi thường, mãnh liệt bằng chính những thành tựu, giá trị khoa học, cách mạng, nhân văn, nhân bản sâu sắc. Những thành tựu, giá trị khoa học, cách mạng, nhân văn, nhân bản sâu sắc, mang tính phổ biến toàn nhân loại của Chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện ở rõ nét ở thế giới quan duy vật mác - xít; phương pháp biện chứng duy vật mác - xít; nhận thức luận duy vật mác - xít; quan niệm duy vật về lịch sử; học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác; sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, chủ nghĩa nhân văn vì con người,...

Ở Việt Nam kể từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam cho đến nay, Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn được khẳng định là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Sự vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước (đặc biệt trong thời kỳ đổi mới từ 1986 cho đến nay) đã trở thành một nguyên tắc trong đường lối đổi mới của Đảng. Vì rằng như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ bảo: C.Mác và Ph.Ăngghen không bao giờ tự cho học thuyết của mình là một hệ thống lý luận “nhất thành bất biến”, trái lại, nhiều lần, hai ông đã chỉ rõ: đó chỉ là những “gợi ý” cho mọi suy nghĩ và hành động, do đó, việc nghiên cứu, bổ sung phát triển nó là nhiệm vụ của các nhà xã hội chủ nghĩa sau này trên cơ sở tổng kết hiện thực khách quan ở mỗi quốc gia. Ph.Ăngghen: “Chủ nghĩa xã hội muốn thành khoa học phải đặt trên cơ sở hiện thực. Từ khi trở thành khoa học đòi hỏi trước hết phải được nghiên cứu, phát triển mọi mối liên hệ, mọi chi tiết của nó”3. Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam đó cũng chính là tinh thần trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh có một quá trình hình thành và phát triển gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng của Người. Công lao to lớn của Người đối với nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam, đối với Đảng ta là giá trị vô cùng to lớn, trường tồn trên cả phương diện thực tiễn và lý luận không ai có thể phủ nhận được.

Nhận thức của Đảng ta về Tư tưởng Hồ Chí Minh có một quá trình phát triển. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 - 1986), Đảng ta nhấn mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh...”4. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6 - 1991) có điểm mới là “nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh”, và khẳng định “Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -  Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của dân tộc ta”5. Trong Cương lĩnh 1991 xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX chính thức nêu khái niệm (định nghĩa) về tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”6.

Trong tình hình hiện nay, có những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm phủ nhận sạch trơn giá trị mang tính phổ biến toàn nhân loại của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Trước hết là đối với  chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể phân loại thành các nhóm đối tượng sau:

Thứ nhất, những người có hiểu biết nhất định về chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng do lợi ích cá nhân, giai cấp... chi phối, nên họ cố tình phủ nhận, xuyên tạc toàn bộ giá trị bền vững, phổ biến đối với tiến trình phát triển của nhân loại của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Thứ hai, những người không có hiểu biết gì về chủ nghĩa Mác - Lênin, nếu có thì rất sơ sài… nhưng do lợi ích cá nhân, hoặc bị những thế lực cực đoan, phản động mua chuộc, lôi kéo, lợi dụng dẫn đến lời nói, hành động chống đối, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin.

Đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch thường tập trung vào các vấn đề sau:

Một là, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ nhấn mạnh đến đấu tranh dân tộc còn Chủ nghĩa Mác  Lênin nhấn mạnh đến đấu tranh giai cấp, do vậy tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ có giá trị trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, chứ không có giá trị đối với sự nghiệp cách mạng nước ta sau khi đã giành được độc lập dân tộc. Ý đồ sâu xa là họ muốn xóa bỏ con đường đã được Hồ Chí Minh, Đảng ta và Nhân dân ta đã lựa chọn đó là: “độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội”; nhằm tách tư tưởng Hồ Chí Minh với bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Hai là, khẳng định “tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là chủ nghĩa dân tộc”, các thế lực thù địch muốn đồng nhất tư tưởng về giải phóng dân tộc trong tư tưởng của Người là “chủ nghĩa dân tộc sô vanh”, “chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi”, mang bản trái với tinh thần của Chủ nghĩa Mác  Lênin đó là: “các dân tộc có quyền bình đẳng”; “các dân tộc có quyền tự quyết”; “giai cấp vô sản các dân tộc đoàn kết lại”. Đây là một thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch.

Ba là, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Xem chủ nghĩa Mác - Lênin là thứ chủ nghĩa ở phương Tây, không phù hợp để cách mạng Việt Nam vận dụng. Ở Việt Nam chỉ cần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ, do đó ở Việt Nam hiện nay tư tưởng Hồ Chí Minh cần đề cao thành chủ nghĩa Hồ Chí Minh. Đây là một luận điểm cũng nhằm phủ nhận nguồn gốc ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh; tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin.

Mục đích cuối cùng của các đối tượng xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam là nhằm xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, thành quả cách mạng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự nghiệp đổi mới đất nước của Đảng ta và Nhân dân ta... bởi vì, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ tư tưởng của Đảng, là cơ sở lý luận khoa học, cách mạng để Đảng Cộng sản Việt Nam hoạch định, tổ chức thực hiện các quyết sách chính trị.

 2. “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng”

Từ thực tiễn đổi mới của đất nước, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ và đầy đủ hơn. Tại Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng”.

Nhìn lại lịch lịch sử dân tộc, vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, bối cảnh lịch sử Việt Nam đặt ra nhu cầu phải tìm ra con đường cách mạng để đánh đuổi thực dân xâm lược, giành độc lập dân tộc và tiếp tục phát triển. Nắm vững nhu cầu lịch sử của dân tộc, trên con đường tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó, Người đã nghiên cứu tiếp thu và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để tìm ra con đường đi của cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, Người chỉ rõ:“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”7. Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin chính là cơ sở lý luận để Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng ta quyết định lựa chọn con đường của cách mạng Việt Nam là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã tìm ra con đường phát triển mang tính đặc thù - con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến. Cách thức phát triển này cho phép giải quyết một cách triệt để mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp của xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Như vậy, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh sự lựa chọn khách quan của chính thực tiễn - lịch sử dân tộc mang đậm tính đặc thù của Việt Nam đã được khẳng định.

Trên cơ sở tiếp tục nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận cho phù hợp với bối cảnh mới, cũng tại Đại hội XIII (2021) qua 35 năm đổi mới, Đảng ta khẳng định: “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”8. Như vậy, đường lối đổi mới đất nước cũng là cơ sở lý luận quan trọng để chúng ta tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ngược lại kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi Đảng ta phải luôn phải kiên định đường lối đổi mới. Đây là mối quan hệ biện chứng không thể tách rời. Vì rằng, chủ nghĩa xã hội là một thực thể khách quan luôn vận động, biến đổi, vì vậy lý luận về chủ nghĩa xã hội cũng phải bám sát thực tiễn, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận cho phù hợp.

Với sự kiên định ấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành độc lập, tự do cho dân tộc, đưa đất nước thống nhất và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta sau 35 năm đổi đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng, có ý nghĩa về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; đã tập trung giải quyết tốt các mối quan hệ lớn trên con đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phản ánh đúng quy luật tất yếu khách quan về mối quan hệ giữa đổi mới và phát triển, giữa độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới ở Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”9.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, bên cạnh những thời cơ, vận hội, Việt Nam sẽ đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức cả trong và ngoài nước mang tính khách quan và chủ quan. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta nhận định: “... tình hình thế giới giới và khu vực tiếp tục thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục phát triển, nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mãi diện ra gay gắt. Do tác động của đại dịch covid-19,  thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt…”10. Trong bối cảnh đó, đối với tình hình trong nước Đảng ta nhận định: “… dù đạt được những thành tựu rất quan trọng, rất đáng tự hào, nhưng đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế”11. Chẳng hạn như: “Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng… Tính tự chủ và khá năng chống chịu của nền kinh tế chưa cao… Công tác lãnh đạo, quản lý, bảo đảm an ninh con người, trật tự, an toàn xã hội; sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập, gây bức xúc xã hội…; chất lượng pháp luật, chính sách trong một số lĩnh vực còn thấp. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn chưa ngang tầm nhiệm vụ. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng, Nhà nước chưa thật đầy đủ đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao…”12. Đây chính là mảnh đất màu mỡ để các thể lực thù địch lợi dụng xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, xuyên tạc đường lối đối mới của Đảng ta.   

Để khắc phục những khó khăn, thách thức và hạn chế trên Đảng ta đã khẳng định: “Những khó khăn, hạn chế và khuyết điểm đó đồi hỏi chúng ta phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn và hành động quyết liệt hơn nữa để khắc phục cho bằng được”13.

3. “Kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”

Có thể nói, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đưa vào nội dung “kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” - là điểm mới trong hệ thống các quan điểm chỉ đạo của Đảng. Tuy nhiên, đây cũng là một quá trình phát triển nhận thức lý luận của Đảng trên cơ sở tổng kết thực tiễn của 35 năm đổi mới theo hướng mở rộng và bao quát hơn những nội dung cần phải kiên định. Nếu như Văn kiện Đại hội X của Đảng nêu ra năm bài học lớn từ thực tiễn 20 năm đổi mới, trong đó bài học thứ nhất là: “… trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”14. Đến Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội… Kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc”15. Đại hội XII vẫn giữ nguyên các nội dung đã được Đại hội XI đề cập. Riêng về các nguyên tắc, Đại hội XII lần đầu tiên nêu rõ: “Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên”16.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định kiên định các nguyên tắc xây dựng đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một bước phát triển trong nhận lý luận gắn liền với việc tổng kết thực tiễn trong trong tình hình mới. Dựa trên những nguyên lý về xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân do V.I.Lênin (V.I.Lênin đã đề ra những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới để phân biệt với những Đảng cơ hội của Quốc tế II) và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng (nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; nguyên tắc tự phê bình và phê bình; nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác; nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng) và thực tiễn hoạt động của Đảng ta trong tiến trình cách mạng Việt Nam, tại Đại hội XI, Đảng ta đã thông qua Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi) và thực hiện cho đến nay. Trong đó khẳng định về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”17.

Có thể nói rằng, sau hơn 90 năm xây dựng và trưởng thành gắn liền với vận mệnh dân tộc, cách mạng Việt Nam Đảng ta luôn kiên định với những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự kiên định đấy là có tính nguyên tắc, nhưng không cứng nhắc mà có sự linh hoạt, bổ sung phát triển trong điều kiện mới.

Khẳng định sự kiên định các nguyên tắc trong xây dựng Đảng, để xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khi tổng kết công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ XII, Đảng ta đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp của công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ XIII. Trong đó, về nhiệm vụ giải pháp đã xác định những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng. Đó là, “Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị; Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng; Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức; Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; Củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên; Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu; Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí; Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới”18. Mười nhóm nhiệm vụ, giải pháp này là có tính hệ thống, toàn diện trong mối quan hệ biện chứng, đáp ứng được yêu cầu của công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới. 

Lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển liên tục trong 35 năm đổi mới, cùng những căn cứ thực tiễn của Việt Nam và thế giới là cơ sở khoa học để Đại hội lần thứ XIII (2021) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

 

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. 2, Nxb CTQG - ST, H, 2021, tr. 324 - 325.

2. Sđd, tr. 324.

3. C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t. 19, Nxb CTQG - ST, H, 1995, tr. 305.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb ST, H, 1987, tr. 125.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb ST, H, 1991, tr. 127.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr. 83 - 84.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 12, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 30.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. 1, Nxb CTQG - ST, H,  2021, tr. 103.

9. Sđd, tr. 25.

10. Sđd, tr. 30.

11. Sđd, tr. 31.

12. Sđd, tr. 31 - 32.

13. Sđd, tr. 32.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 70.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 255.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 199.

17.  Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 5.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. 2, Nxb. CTQG ST, H,  2021, tr. 231 - 256.

(Nguồn: Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 7 (180), 2021)